Trang chủ Mõ Làng TRAO ĐỔI VỚI JONATHAN LONDON VỀ UY QUYỀN CHÍNH ĐÁNG

TRAO ĐỔI VỚI JONATHAN LONDON VỀ UY QUYỀN CHÍNH ĐÁNG

162
0

TRAO ĐỔI VỚI JONATHAN LONDON VỀ UY QUYỀN CHÍNH ĐÁNG

Trong bài viết Độc lập – Tự do – Hạnh phúc, ở vấn đề đầu tiên Độc Lập, Jonathan London có đưa ra một khái niệm “Uy quyền chính đáng” và theo ông, uy quyền chính đáng: “Về cơ bản, sự uy quyền tối cao (của một nhà nước trong trường hợp này) phụ thuộc vào sự ưng thuận của nhân dân trong nước đó. Thế nhưng, nhìn kĩ thì thấy có 3 loại uy quyền. Một là, uy quyền hình thức (tức là những gì được viết trên Hiến Pháp). Hai là, sựuy quyền thực quyền, (lúc đầu ông nói là uy quyền sự thực) tức là de facto authority (ai có súng trong tay). Ba là, uy quyền chính đáng mà đúng ra có nghĩa là nhân dân đồng ý chịu sự lãnh đạo”. Đồng thời, ông nhận định rằng: “Ở Việt Nam, những tranh cãi về dân chủ chủ yếu xoay quanh vấn đề uy quyền chính đáng”

Khoan chưa nói đến cách hiểu thiếu biện chứng trong 3 loại uy quyền mà Jonathan London nêu ra do cách hiểu thiếu tường tận. Bởi vì, ngay trong loại uy quyền tưởng chừng như là hình thức, được viết trong hiến pháp, nó bao hàm cả uy quyền thực quyền và uy quyền chính đáng. Vì chính quyền chỉ được làm những gì mà nhân dân ủy nhiệm như trong hiến pháp. Hiến pháp là ý chí của nhân dân, trên thực tế nó khống chế, khuôn phép chính quyền chống lạm quyền, vì vậy nó chẳng hình thức tí nào. 

Khoan nói cách dẫn nhập kiểu “treo đầu dê bán thịt chó” của Jonathan London khi ông mổ xẻ vấn đề ĐỘC LẬP thì lại giải nghĩa độc lập bằng vấn đề UY QUYỀN CHÍNH ĐÁNG của chính đảng chính trị. Thưa ông Jonathan London, trong từ điển Việt Nam khái niệm độc lập theo lát cắt chính trị học được hiểu là: Một nước giữ được chủ quyền kinh tế, chính trị của mình không để nước khác can thiệp vào. Độc lập khác với độc quyền, độc tài, độc đoán. Ông nên học lại khái niệm.

Trong bài viết này tôi chỉ trao đổi với Jonathan London về một vấn đề mà suốt bài viết của mình ông cho là cốt tử ở Việt Nam “uy quyền chính đáng”.

Theo tôi, uy quyền là quyền hành làm cho người khác phải sợ. Chính đáng làđúng với lẽ phải, hợp tình, hợp lí. Vấn đề mà ông đang nói là tính hợp lí, hợp lẽ phải của quyền hành các chủ thể chính trị cầm quyền. Vậy nên, để có uy quyền chính đáng thì chính đảng cầm quyền phải có những tiêu chí chung sau đây:

Một là, uy quyền chính đáng là cái thể hiện sự cần thiết, tất yếu, tất nhiên

Khi xã hội loài người chưa phát triển, lực lượng sản xuất còn rất thấp kém, con người sống thành bầy đàn, con người đã cần phải hiệp đồng với nhau để chống chọi với thiên nhiên, duy trì cuộc sống, từ đó hình thành nên các bộ tộc, bộ lạc. Thực tiễn đó đòi hỏi phải có những người thay mặt cộng đồng đứng ra duy trì, điều hành hoạt động của cả cộng động, và do đó, xuất hiện các tù trưởng, tộc trưởng, già làng, trưởng bản đứng ra thay mặt cộng đồng điều hành hoạt động chung của cả cộng đồng. Như vậy, khởi đầu trong đời sống, con người đã quan niệm sự hiện diện, hoạt động uy quyền chính đáng là sự cần thiết, tất yếu, tất nhiên, hợp lý.

Thời phong kiến uy quyền chính đáng được xã hội thừa nhận quyền lực nhà nước, quyền lực của vua chúa là thứ quyền lực siêu nhiên. Vua không phải là người thay mặt cho đa số, nhưng vua là con trời, là người thay mặt thiên tử hành đạo. Vua có quyền nắm tất cả các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp để thực hiện cai trị thiên hạ, vua cha truyền ngôi cho vua con là đương nhiên, tất yếu. Sự tuân thủ đó là bổn phận tuyệt đối, không cần suy nghĩ của muôn dân. Người dân có bổn phận phải tuân thủ quyền lực của vua chúa chính là bổn phận tuân thủ quyền lực của thượng đế. 

Các nhà tư tưởng thời cận đại, như J. Locke, Mông-tec-xki-ơ, J.J. Rut-so đều cho rằng, con người từ khi sinh ra đã có những quyền bất khả xâm phạm – quyền tự do công dân – h
ọ là những công dân chính trị. Bất cứ nhà nước nào cũng gắn với quyền lực, nhưng quyền lực nhà nước là quyền lực của dân, do dân ủy quyền, dân nuôi nhà nước và do đó, nhà nước phải phục vụ dân, nhân viên công lực phải là công bộc của dân. Nhà nước thực hiện được những nguyên tắc đó thì sự tồn tại nhà nước đó là có uy quyền chính đáng. Nếu nhà nước vi phạm hợp đồng, có thể dân sẽ thay nhà nước đó bằng một nhà nước khác thông qua một cuộc cách mạng.

Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định, sự xuất hiện giai cấp và đấu tranh giai cấp là kết quả tất yếu của sự phát triển kinh tế, khi xã hội có sản phẩm dư thừa và bộ phận người này chiếm đoạt sản phẩm lao động của bộ phận người khác. Giai cấp nắm quyền lực kinh tế tất yếu trở thành giai cấp nắm quyền lực thống trị và quyền lực của giai cấp thống trị bao giờ cũng được thiết lập bằng tổ chức nhà nước. Sự xuất hiện nhà nước vô sản và đảng vô sản nắm quyền trong thời đại ngày nay là hoàn toàn chính đáng, cần thiết, tất yếu.

Ở Việt Nam, trong lịch sử hiện đại đã có rất nhiều chính đảng chính trị, tất cả họ đều ít nhiều có những tham vọng vươn lên nắm quyền lực. Tuy nhiên, rốt cuộc chỉ có ĐCS là chính đảng thành công. Bởi vì, chủ thể chính trị ấy đã có đường lối đúng, hợp lòng dân nên đã huy động được sức mạnh toàn dân làm cách mạng xã hội thắng lợi. Ngày nay ĐCS cũng đang lãnh đạo nhân dân khắc phục hậu quả chiến tranh, phá thế bao vây cấm vận, phát triển kinh tế thắng lợi, từng bước nâng cao mức sống của nhân dân nên được dân tin tưởng. Do vậy, uy quyền lãnh đạo của ĐCS là cần thiết, tất yếu, tất nhiên, chưa có một chính đảng chính trị nào thay thế được. Chưa có ai thay thế được hình ảnh lãnh tụ Hồ Chí Minh của họ. Và do đó, uy quyền lãnh đạo của ĐCS là uy quyền chính đáng. 

Thứ hai, uy quyền chính đáng đồng nghĩa với sự thừa nhận, niềm tin, sức cuốn hút xã hội

Sự thừa nhận xã hội đối với một chủ thể xã hội hay chủ thể chính trị nào đó là sự thừa nhận về danh vị (địa vị, chức danh trong các thang bậc của quyền lực) và quyền hạn được làm những gì và không được làm những gì (nhiệm vụ, bổn phận, quyền và lợi) trong hành vi của mỗi chủ thể chính trị, xã hội. Sự thừa nhận xã hội là cái tạo cho mỗi chủ thể chính trị uy quyền chính đáng. 

Nho giáo đặc biệt nhấn mạnh uy quyền chính đáng theo tiêu chí sự thừa nhận xã hội. Người cai trị được coi là chính đáng khi họ chính danh, nhân chính, vi chính. Để duy trì được quyền lực, điều quan trọng nhất là nhà vua phải giữ được đức tín, giữ được lòng tin của dân. Dân đã tin thì thế lực rất mạnh, làm việc gì cũng được.

Sự thừa nhận của xã hội về vị trí, vai trò, quyền lực chính trị đối với mỗi chủ thể chính trị bao giờ cũng thể hiện ở niềm tin chính trị, sự tín nhiệm xã hội đối với chủ thể đó. Chính niềm tin, sự tín nhiệm của dân chúng với đảng cầm quyền là cái tạo nên sức cuốn hút (charismatic) họ thực hiện quyền lực. Nhưng để có được niềm tin, để xã hội giao quyền cho một chủ thể nào đó và để có sự phục tùng nghiêm túc của khách thể đối với chủ thể trong quan hệ quyền lực, lại tuỳ thuộc chủ yếu ở việc thực hiện các quan hệ lợi ích có đáp ứng được các yêu cầu chính đáng của xã hội hay không. 

Sự thực ở Việt Nam, uy quyền chính đáng của Đảng cộng sản VN với nhân dân đã được Cương lĩnh chính trị của Đảng xác định là: “Đảng công sản VN là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”. Lợi ích của đảng thống nhất với lợi ích của nhân dân, Đảng lấy lợi ích của nhân dân làm mục tiêu hoạt động của mình. Xã hội mà VN đang xây dựng là xã hội XHCN có những đặc trưng cơ bản: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; Do nhân dân làm chủ; Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc; có điều kiện phát triển toàn diện; Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới”.

Những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa được nêu trên vừa phản ánh được bản chất của chủ nghĩa xã hội mà ĐCS hướng tới. Đồng thời nó cũng phản ánh nguyện vọng của nhân dân Việt Nam. Vì vậy nó tạo niềm tin của nhân dân vào một xã hội tốt đẹp. Nó cuốn hút toàn dân hưởng ứng chủ trương của ĐCS. Và chính nó là uy quyền chính đáng mà ĐCS có được.

Thứ ba, một chủ thể cầm quyền được coi là chính đáng khi nó luôn ở vị trí tiên tiến, tiền phong trong xã hội.

Một lực lượng nào đó muốn nắm được quyền lực, muốn giữ được quyền lực lâu dài thì chủ thể đó phải luôn ở vị trí tiên tiến, tiền phong. 

Trong các xã hội thực dân xâm lược, thống trị, vấn đề độc lập dân tộc trở thành vấn đề chính trị chủ yếu; và trong các thời đại mà chính trị đã tỏ ra lỗi thời, tầng lớp cai trị trở nên phản động, là lực lượng đối lập với lợi ích toàn xã hội, kìm hãm phát triển xã hội, thì có thể, một lực lượng chính trị mới, sẽ thông qua một cuộc cách mạng để giành quyền lực. Lực lượng chính trị nào thực hiện việc thông qua một cuộc cách mạng để giành vị trí quyền lực nhằm thay đổi xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng hợp lòng dân, hợp với xu thế thời đại, thì lực lượng cầm quyền đó sẽ được xã hội thừa nhận là chính đáng.

Xã hội tư bản dưới sự thống trị của giai cấp tư sản là xã hội đầy áp bức, bất công. Đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản tất yếu diễn ra, dẫn đến giai cấp công nhân, giai cấp tiêu biểu cho lực lượng sản xuất tiến tiến – dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản tiên phong ở nhiều nước châu Âu, châu Á – thực hiện cuộc cách mạng vô sản giành chính quyền, xây dựng chủ nghĩa xã hội là tất yếu, phù hợp với xu thế của thời đại, do đó được xã hội thừa nhận là chính đáng. Nhiều nước thuộc địa ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ La-tinh, nhiều đảng tư sản dân tộc, đảng công nhân đã đứng ở vị trí tiên phong trong lãnh đạo cuộc đấu tranh chống thực dân, giành độc lập cho đất nước, và nhiều đảng trong số đó đã cầm quyền cho đến ngày nay, được dân tín nhiệm, thừa nhận.

Nhưng để mỗi một chính đảng, mỗi lực lượng chính trị – xã hội vươn lên nắm được quyền lực, cầm quyền một cách chính đáng thì phải tỏ rõ là vị trí tiên phong về đường lối, chiến lược, sách lược và về nghệ thuật tập hợp lực lượng cách mạng, đứng về lợi ích của dân tộc, của đa số để giành được ưu thế trong cuộc cạnh tranh quyết liệt với nhiều lực lượng chính trị, nhiều xu hướng chính trị khác nhau.

Ở Việt Nam, ĐCS đã đưa ra cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Với đặc thù của Việt Nam hiện nay, sự lựa chọn đó là đúng đắn, được nhân dân đồng tình, ủng hộ. Cho dù đây đó có những tiếng nói chê bai CNXH, cổ vũ cho mô hình TB. Song đó cũng chỉ là những ý kiến mang tính áp đặt chủ quan hoặc công kích, bôi xấu. CNTB cũng không phải là mô hình lý tưởng, trong nó cũng còn đầy rẫy những bất công mà các chính đảng chính trị cầm quyền cũng đang cố thoát ra để tranh thủ lòng dân. Mỗi dân tộc có quyền chon lối đi cho mình. Những chính đảng chính trị cầm quyền nếu không chứng minh được đường lối của mình là tiên tiến, là tiến bộ thì tất yếu sẽ bị nhân dân phế bỏ, chẳng cần ai đó làm cách mạng thay họ. Vì vậy mỗi khi ĐCS vẫn đứng vững ở vị trí cầm quyền của mình thì có nghĩa họ có uy quyền chính đáng.

Thứ tư, trong quan hệ giữa các chủ thể quyền lực, uy quyền chính đáng thể hiện ở khả năng thuyết phục của chủ thể quyền lực và sự tuân thủ tự nguyện của khách thể thực hiện quyền lực

Tính chính đáng thể hiện ở khả năng thuyết phục của chủ thể quyền lực và khả năng tuân thủ của khách thể quyền lực hiện diện như là tổng hợp của các biểu hiện chính đáng đã nói ở trên. Nhờ đó, các khách thể quyền lực thực hiện các mệnh lệnh từ chủ thể quyền lực một cách tự giác, tự nguyện.

Học thuyết của Khổng tử đặt nặng chữ “chính” ở trung tâm. Hiển nhiên, không phải cứ muốn “vi chính” là được. Đó phải là quá trình, mà chủ yếu là quá trình học: Cách vật – Chí tri – Chính tâm – Thành ý. Đây là điều kiện, là nền tảng, là nỗ lực và khả năng của cá nhân, để “Tu thân – Tề gia – Trị quốc – Bình thiên hạ”, trong cai trị phải chính danh, phải dung đức để thu phục “thân kỳ chính bất lệnh nhi hành” (dùng quyền lực cai trị chính đáng thì không cần cưỡng bức bằng mệnh lệnh mà người dân vẫn làm theo), “kỳ nhân chính, bất lệnh nhi hành, tuy lệnh bất tòng” – mình ngay chính thì không sai khiến người ta cũng làm, mình không ngay chính thì tuy có sai khiến cũng không ai theo (Luận ngữ: Tử Lộ, XIII). Khổng Tử luôn phản đối những người thực hiện quyền lực đi ngược với ý trời, trái với lòng dân (cai trị bất chính). Chính điều này, “tính chính đáng là sự thiết lập và thực thi quyền lực cai trị, trong đó, về phần chủ thể quyền lực thì có ý thức là mình có quyền cai trị, còn về phía người dân là sự chấp nhận về sự cai trị đó”, và “chính phủ được coi là không chính đáng nếu nó không thực hiện dựa trên sự ưng thuận về sự cầm quyền”.

Khi xem xét đến uy quyền chính đáng trong các quá trình chính trị là xem xét đến trạng thái, mức độ bất tuân thủ quyền lực. Uy quyền chính đáng là những yếu tố mà chủ thể cai trị thiết lập được để thuyết phục những người bị trị phải tuân thủ và ủng hộ các mệnh lệnh mà chủ thể cai trị đưa ra một cách tự nguyện nhằm đạt được hiệu lực và hiệu quả của quyền lực. Như vậy, uy quyền chính đáng gắn với nghĩa vụ, bổn phận của các khách thể chính trị trong việc tuân thủ các mệnh lệnh của chủ thể quyền lực. Nghĩa vụ tuân thủ như vậy có cơ sở không phải từ nỗi sợ hãi bị trừng phạt hay thuần túy từ lợi ích cá nhân, mà là từ sự công nhận về chuẩn mực đạo đức, sự hợp lẽ, sự hợp lý, khách quan và tự nhiên của chủ thể quyền lực mà nhà nước là hiện thân.

Hiện nay, như đánh giá công khai của ĐCS Việt Nam, bên cạnh những cán bộ, đảng viên tận tụy với công việc, gương mẫu, hết lòng vì dân, trong đội ngũ của đảng đang có bộ phận có những biểu hiện sa sút, thoái hóa về đạo đức, lối sống làm mất lòng dân, làm suy yếu uy quyền chính đáng của đảng. Tuy nhiên, bằng thái độ nghiêm khắc, chân thành, ĐCS đã thẳng thắn chỉ ra những yếu kém của mình và coi đó là nguy cơ cần được loại trừ để củng cố uy quyền chính đáng của mình. 

Thứ năm, uy quyền chính đáng là một phạm trù khả biến

Uy quyền chính đáng trong chính trị không bất biến mà khả biến (thay đổi) theo từng giai đoạn lịch sử phát triển của xã hội. Có những cái trong xã hội cũ được coi là chính đáng, nhưng có thể trong xã hội mới nó lại không được coi là chính đáng và ngược lại. Những yếu tố cho sự thừa nhận xã hội về tính chính đáng của chủ thể chính trị thay đổi theo thời gian, theo sự phát triển của xã hội, theo trình độ tư duy chính trị ở mỗi thời đại, theo bản chất của giai cấp nắm quyền thống trị và theo quan niệm của các học thuyết, trường phái tư tưởng chính trị. Do đó, uy quyền chính đáng trong chính trị là một khái niệm có nội hàm mang tính tương đối.

Đảng cộng sản Việt Nam, cũng như các chính đảng cầm quyền khác, nếu không không ngừng hoàn thiện mình, làm mất lòng tin của dân chúng thì uy quyền chính đáng cũng sẽ không còn.

Kết luận

Theo đánh giá của chúng tôi, ngày nay, uy quyền chính đáng của ĐCS vẫn chiếm ưu thế trong lòng dân Việt Nam. Bởi vì đường lối chính trị của Đảng đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, lợi ích mà nhân dân có được như ngày nay là kết quả của quá trình đấu tranh gian khổ bằng sự đồng thuận của nhân dân với đảng. Ở Việt Nam chính trị vẫn ổn định, xã hội vẫn an toàn. Mặc dầu đây đó cũng còn những ý kiến trái chiều nhưng nó là tất nhiên và cũng chỉ là những ý kiến của nhóm nhỏ, không đại diện cho tầng lớp nào. Điều quan trọng là, những ý kiến đó không thuyết phục được đông đảo nhân dân. Mới đây, khi có ý kiến khởi xướng thành lập đảng chính trị mới đối lập với ĐCS thì lập tức bị dư luận xã hội phản bác quyết liệt. Vì vậy, uy quyền chính đáng của đảng cộng sản Việt Nam vẫn vững vàng. Không như ông Jonathan London bịa đặt đâu.

Nếu ông cần tôi sẽ trao đổi với ông về vấn đề ĐỘC LẬP ở một bài riêng. Bởi vì tôi có cảm giác ông không có động cơ phản biện trung thực mà chỉ là “Bới bèo tìm bọ” – theo cách nói của người Việt – cho một mục đích đen tối mà thôi.

Nguồn: Mõ làng