Công dân Việt Nam bình thường định cư ở trong nước không thể cùng một lúc có từ hai quốc tịch trở lên.
Quốc tịch là một chế định pháp lý quan trọng của mọi quốc gia. Nó bao giờ cũng được thể hiện trước hết trong Hiến pháp. Bởi vì một trong bốn yếu tố quan trọng cấu thành một quốc gia độc lập là yếu tố cư dân và quốc tịch.
Quốc tịch cũng thể hiện mối quan hệ pháp lý về quyền và nghĩa vụ giữa công dân với nhà nước. Quốc tịch, vì vậy là vấn đề vừa mang tính pháp lý vừa mang tính chính trị sâu sắc.
Trong thực tiễn đã từng có những xung đột quốc gia mà khởi đầu của nó là vấn đề quốc tịch. Vì vậy, giải quyết vấn đề quốc tịch luôn nhạy cảm đối với mọi quốc gia. Tuỳ theo điều kiện, tình hình, vị thế của mỗi quốc gia mà pháp luật về quốc tịch của từng quốc gia cũng có những quy định đặc thù.
Hai trường phái pháp luật về quốc tịch
Các luật gia thường phân ra hai trường phái pháp luật về quốc tịch căn cứ vào các quy định về điều kiện có quốc tịch, mất quốc tịch của mỗi nước như sau:
Thứ nhất, nhóm nước theo nguyên tắc đa quốc tịch (từ hai quốc tịch trở lên). Những nước này không hạn chế công dân của họ có một hay nhiều quốc tịch.
Thứ hai, nhóm nước theo nguyên tắc một quốc tịch. Trong nhóm này lại phân thành hai nhóm nhỏ sau:
Những nước theo nguyên tắc một quốc tịch “cứng”: Luật pháp những nước này hoàn toàn không cho phép công dân của họ được có cùng lúc hai quốc tịch trở lên.
Những nước theo nguyên tắc một quốc tịch “mềm”: Luật pháp những nước này quy định công dân của họ chỉ có một quốc tịch nhưng cũng cho phép trong một số trường hợp (thường là đặc biệt) được phép có hai quốc tịch.
Để bảo đảm thực hiện các nguyên tắc “đa quốc tịch” hoặc một quốc tịch (cứng hoặc mềm) mỗi quốc gia đều quy định những điều kiện nhập, trở lại, thôi quốc tịch một cách thích hợp.
Phải thôi quốc tịch Việt Nam trước khi nhập quốc tịch nước ngoài
Việt Nam, bắt đầu từ luật Quốc tịch 2008 (được sửa đổi bổ sung 2014) có thể coi là một quốc gia chuyển từ một quốc tịch “cứng” sang một quốc tịch “mềm”.
Theo luật Quốc tịch Việt Nam, chỉ những công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài, có quốc tịch nước ngoài nhưng chưa thôi quốc tịch Việt Nam thì vẫn có quốc tịch Việt Nam (khoản 2, điều 13). Lưu ý: Điều khoản này không áp dụng đối với công dân Việt Nam định cư trong nước.
Ngoài ra, chỉ một số trường hợp đặc biệt, được Chủ tịch nước đồng ý thì những người nước ngoài khi nhập quốc tịch Việt Nam hoặc trở lại quốc tịch Việt Nam có thể được giữ nguyên quốc tịch nước ngoài. Trong trường hợp này những công dân ấy sẽ có hai quốc tịch.
Như vậy, công dân Việt Nam bình thường định cư ở trong nước không thể cùng một lúc có từ hai quốc tịch trở lên. Trong trường hợp những công dân này muốn nhập quốc tịch nước ngoài thì phải thôi quốc tịch Việt Nam trước khi nhập quốc tịch nước ngoài.
Không những thế, khoản 4, điều 27 của luật cũng quy định: “Cán bộ, công chức và những người đang phục vụ trong lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam không được thôi quốc tịch Việt Nam”.
Trong khi ông Phạm Phú Quốc đang là đại biểu Quốc hội thì chắc chắn không được thôi quốc tịch Việt Nam.
Hình thức phạt thích đáng
Từ những phân tích trên, tôi có thể nhận định: Ông Phạm Phú Quốc đã vi phạm nghiêm trọng luật Quốc tịch Việt Nam hiện hành. Không những vậy, tính chất hành vi vi phạm của ông Quốc là lén lút. Tôi dùng từ “lén lút” là bởi ông Quốc đã thực hiện hành vi này một cách bí mật, không báo cáo tổ chức Đảng, chính quyền. Một đại biểu Quốc hội lén lút và cố ý vi phạm pháp luật không thể không bị một hình thức phạt thích đáng.
Bãi nhiệm đại biểu Quốc hội có phải là một hình thức phạt không? Theo tôi là không phải. Trong pháp luật Việt Nam cũng như các nước trên thế giới chỉ có ba loại phạt là: Phạt hình sự, phạt hành chính và phạt dân sự. Tương ứng với ba hình thức phạt này thì bộ luật Hình sự, luật Xử lý vi phạm hành chính và bộ luật Dân sự đều có quy định các hình thức phạt cụ thể. Tuy nhiên trong cả ba bộ luật và đạo luật nói trên không hề có quy định hình thức phạt “bãi nhiệm”.
“Bãi nhiệm” chỉ là một hình thức cho thôi làm đại biểu đối với các chức vụ do bầu cử. Bãi nhiệm khác với miễn nhiệm ở chỗ người bị bãi nhiệm do vi phạm kỷ luật hoặc phạm tội nên không còn đủ tư cách làm đại biểu; còn miễn nhiệm thì người đại biểu không còn đủ điều kiện để tiếp tục làm nhiệm vụ đại biểu nên được miễn nhiệm theo đơn đề nghị của chính người đó. Việc phân biệt giữa bãi nhiệm và miễn nhiệm chỉ có ý nghĩa về chính trị. Như vậy “bãi nhiệm” không phải là một hình thức phạt.
Trong lý luận về pháp luật, phạt được coi là việc gây cho người vi phạm pháp luật một thiệt hại (vật chất hoặc tinh thần) nhất định tương ứng với hành vi vi phạm của người đó. Nếu coi “bãi nhiệm” là hình thức phạt đối với đại biểu thì hóa ra chúng ta quan niệm làm đại biểu chỉ thuần túy là một quyền lợi của cá nhân đại biểu mà thôi.
Trần Thất (Nguyên Vụ trưởng Vụ Hành chính tư pháp, Bộ Tư pháp)
Nguồn: Cánh cò