Khi bắt đầu tìm kiếm thông tin về 26 cán bộ, chiến sĩ, dân quân tự vệ được phong danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía bắc(tháng 2.1979), cái tên Nguyễn Duy Nhất đã gây ấn tượng đặc biệt với tôi.
Trong chiến đấu, ông xung phong ở lại cản đường địch cho bộ đội rút quân. Trở về đời thường, ông lăn lộn đủ nghề kiếm sống, với tâm niệm “nghèo khó mấy cũng phải tự kiếm sống”. Ông là hạ sĩ Nguyễn Duy Nhất, quê xã Liên Minh (huyện Võ Nhai, tỉnh Bắc Thái, nay là Thái Nguyên), được phong Anh hùng Lực lượng vũ trang (AHLLVT) nhân dân lúc mới 20 tuổi.
Hạ sĩ Nguyễn Duy Nhất chiến đấu bảo vệ biên giới phía bắc, tháng 2.1979 (Ảnh: Tư liệu)
Giữ điểm cao 499
Cách đây mấy năm, khi bắt đầu tìm kiếm thông tin về 26 cán bộ, chiến sĩ, dân quân tự vệ được phong danh hiệu AHLLVT trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía bắc (tháng 2.1979), cái tên Nguyễn Duy Nhất đã gây ấn tượng đặc biệt với tôi. Ông được phong AHLLVT khi đang là y tá của Ban Chỉ huy quân sự H.Cao Lộc (Lạng Sơn).
Lịch sử Quân khu 1 ghi rõ: Sáng 17.2.1979, lính Trung Quốc tràn sang xã biên giới Xuất Lễ (huyện Cao Lộc, Lạng Sơn) theo đường tỉnh 235, dự định kéo về san phẳng TP.Lạng Sơn. Đại đội 2, Tiểu đoàn 8 thuộc Ban Chỉ huy quân sự huyện Cao Lộc đóng trên điểm cao 499 lập tức đã nổ súng đánh trả, chặn bước tiến của địch.
Sau nhiều lần bắn phá ác liệt bằng pháo lớn, lính Trung Quốc mở nhiều đợt tấn công hòng quyết chiếm điểm cao để lấy đường đi và khống chế khu vực. Trận địa mù mịt khói đạn, bộ đội thương vong gần hết nhưng y tá Nguyễn Duy Nhất vẫn vượt qua mọi hiểm nguy, tìm kiếm, cấp cứu và chuyển thương binh về nơi an toàn. Trở lại trận địa chiến đấu, y tá Nhất dùng các loại súng của đồng đội đã thương vong để tiêu diệt địch…
AHLLVT Nguyễn Duy Nhất (thứ 3 từ phải qua) dự Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh toàn quốc lần thứ V, tháng 11.1987 (Ảnh: Tư Liệu)
Cựu chiến binh Phạm Văn Việt nhớ lại: Trưa 17.2.1979, địch tập trung hỏa lực bắn phá ác liệt vào trận địa và cho quân ồ ạt tấn công. Đơn vị vừa thương vong nặng, vừa hết đạn nên rút về tuyến sau. Y tá Nguyễn Duy Nhất sau khi đưa hết thương binh, liệt sĩ ra vòng ngoài đã xung phong quay lại dùng cơ số đạn, 2 quả lựu đạn cuối cùng chặn địch truy đuổi, diệt nhiều tên. Trong ngày 17.2, anh Nhất diệt 30 tên địch.
Ngày 20.12.1979, hạ sĩ Nguyễn Duy Nhất được tặng danh hiệu AHLLVT vì “lập được nhiều thành tích trong cuộc chiến đấu và phục vụ chiến đấu chống bọn xâm lược mới ở biên giới phía bắc nước ta”.
Tình yêu của người lính
Tôi tìm đến căn nhà nằm sâu trong ngõ đường Bến Oánh (tổ 5, phường Túc Duyên, thành phố Thái Nguyên), bà Mai Thị Hằng, vợ anh hùng Nguyễn Duy Nhất, tất tưởi chạy từ chợ cóc Túc Duyên về, tay vẫn còn lấm lem: “Ông ấy mất 16 năm trước. Khi đang chạy xe ôm chở khách từ Võ Nhai sang Cao Lộc (Lạng Sơn), cũng đúng ở nơi đã sống và chiến đấu”.
“Mới gặp hạ sĩ Nguyễn Duy Nhất, tôi không hề nghĩ cái người bé nhỏ chưa đến 50 kg, mảnh khảnh như con gái và hơi tí là đỏ mặt xấu hổ ấy lại là AHLLVT”, bà Hằng nói về ấn tượng ban đầu.
Theo lời kể của bà Hằng, sau trận 17.2.1979, ông Nhất được đưa về học chuyên tu trung học quân y, cuối năm 1980 tốt nghiệp và lại tiếp tục vào Trường văn hóa Quân khu 1 học bổ túc văn hóa trung học cho đến tháng 12.1983. Trong thời gian học văn hóa, ông được bạn học cùng lớp dẫn vào Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Bắc Thái (nay là Thái Nguyên) chơi và quen chiến sĩ thông tin Mai Thị Hằng. Yêu nhau hơn 1 năm, ông Nhất chuyển lên làm y sĩ trên Cao Bằng.
Bà Hằng lần giở kỷ vật và kể chuyện về AHLLVT Nguyễn Duy Nhất với cháu ngoại (Ảnh: M.T.H)
Tháng 2.1984 vợ chồng ông bà cưới nhau. Hết kỳ nghỉ, ông Nhất lại vác ba lô lên Trung đoàn 567 trên Cao Bằng. Cuối năm ấy, bà Hằng sinh con đầu Nguyễn Thị Hiền, và sau đó bà nằm ốm liệt giường khiến ông Nhất lại tất tả nghỉ phép chăm sóc, vận động “về quê nội (xã Liên Minh, H.Võ Nhai, Thái Nguyên) định cư để có anh em họ hàng chăm sóc”.
Vốn con gái thành phố, ít khi phải làm việc nặng nên ban đầu bà Hằng không đồng ý lên vùng rừng núi hoang vu. Nhưng thương chồng lo lắng, đi lại vất vả, bà đành bế con rời phố lên rừng. Những ngày đầu ở quê chồng, bà Hằng vừa khóc vừa làm quen với mọi công việc nông thôn miền núi. Từ đi bộ lấy củi, gánh nước dưới suối, cuốc đất trồng rau cho đến tập cấy lúa, phát cây làm nương rẫy… “Lên rừng sợ vắt, xuống ruộng sợ đỉa, bà con trong bản cứ tò mò hỏi sao người ta muốn ra phố không được, mình lại bỏ phố lên chốn khỉ ho cò gáy này”, bà Hằng ngấn nước mắt kể lại rồi mỉm cười tự hào: “Chả lẽ tôi lại nói với mọi người là vì tôi yêu anh Nhất, có đi đâu tôi cũng đi…”.
Thương vợ vất vả, năm 1988, thượng úy Nguyễn Duy Nhất xin chuyển công tác về Ban Chỉ huy quân sự huyện Võ Nhai. Tiếng là gần nhà, nhưng tần suất về với vợ con cũng chỉ tính bằng tháng, bởi vượt qua đoạn đường núi gần 20 km với 6 con suối, 1 con sông luôn bất thường lũ quét quả thực là nỗi gian truân.
Năm 1990, thượng úy Nguyễn Duy Nhất xin phục viên về làm ruộng, cải thiện đời sống kinh tế gia đình. Do là AHLLVT chống quân Trung Quốc duy nhất của tỉnh nên lãnh đạo cấp cho ông Nhất một mảnh đất ở TT.Võ Nhai và vận động “sĩ quan đảng viên mới 31 tuổi, phải làm phó chủ tịch – trưởng công an xã”. Thương người và hết mình vì công việc, ông Nhất cứ “vác tù và hàng tổng” suốt ngày đêm, nên nghèo vẫn hoàn nghèo. Năm 1994, vợ chồng ông phải bán mảnh đất được cấp ở thị trấn mua con trâu, mảnh ruộng và ông xin nghỉ việc xã để tập trung sản xuất, nuôi các con ăn học.
Cuối những năm 1990, thiên tai dịch bệnh liên tiếp ập xuống khiến gia đình ông Nhất điêu đứng. Ông lăn lộn làm đủ nghề, miễn lương thiện, để nuôi gia đình.
Tự thân kiếm sống
Đầu năm 2000, những người chạy xe ôm ở chợ Tràng Xá (H.Võ Nhai) rất bất ngờ khi thấy một người đàn ông cao gầy, đầu húi cua, mặc quần áo bộ đội cũ dắt chiếc xe minsk Liên Xô ra trước cổng chợ chờ đón khách. Những ngày đầu bị “đồng nghiệp” chèn ép, ông không hề phản ứng, chỉ cười hiền, có khách thì chạy, đến trưa lại lấy cơm nắm chấm muối ra ăn. Một hôm, ô tô của huyện từ TT.Đình Cả vào công tác, ngang qua chợ chợt dừng lại, mấy cán bộ lao ra tay bắt mặt mừng với ông. Từ đó, những người hành nghề xe ôm ở đây mới biết ông là AHLLVT.
“Từ hôm ấy, ông ấy hay được mọi người nhường khách nên tối về vui lắm, cứ luôn miệng bảo: Làm AHLLVT cũng có cái lợi”, bà Hằng cười nhớ lại và mở tủ, lấy cho tôi xem các kỷ vật của chồng. “Ông ấy làm quần quật, khuya mấy mà có khách gọi là đi. Buổi trưa không dám vào quán cơm bình dân, chỉ ăn mì tôm để dành tiền nuôi 2 đứa con ăn học. Tiền mua xe, mấy năm sau mới trả hết. Cả huyện biết có AHLLVT chạy xe ôm, nhưng trên miền núi nghèo quá, chẳng ai giúp được gì. Ngày lễ lạt, kỷ niệm, tỉnh, huyện mời đi dự nhưng ông ấy hay từ chối vì tiếc buổi chạy xe”, bà Hằng kể.
Buổi sáng 13.3.2004, AHLLVT Nguyễn Duy Nhất dậy sớm chở khách sang TT.Cao Lộc (Lạng Sơn) và hẹn vợ “trưa về ăn cơm nhà”. Đợi mãi đến chiều, bà Hằng thất thần khi nhận tin dữ ông bị tai nạn giao thông trên đường mưu sinh, đưa vào bệnh viện được mấy chục phút thì mất. “Tối hôm trước, ông ấy vẫn còn kể với tôi chuyện cứu chữa anh em và giữ chốt ngày 17.2.1979”, bà Hằng cứ nhắc lại di nguyện của chồng rồi rơm rớm nước mắt: “Có lần ông ấy làm đơn xin trở lại quân đội nhưng người ta bảo: Nếu xảy ra chiến tranh, có tổng động viên thì may ra mới quay lại được. Ông ấy lắc đầu: Đất nước này đổ xương máu nhiều rồi, có ai muốn chiến tranh, muốn thành anh hùng đâu?”.
Tháng 3.2004, những đồng đội dự đám tang AHLLVT Nguyễn Duy Nhất nhìn thấy ngôi nhà 3 gian tre nứa trên đỉnh đồi đã phải thốt lên: “Sao mà sống khổ vậy?”, khiến bà Hằng cay mắt nhưng tự hào: “Ông ấy bảo: Danh hiệu AHLLVT cho cá nhân nhưng là máu xương của cả đơn vị. Anh em chết để cho mình sống. Không thể dùng danh hiệu để đổi chác, xin xỏ và đòi ưu đãi. Nghèo khó mấy cũng phải tự kiếm sống”.
Lời dặn của người anh hùng đã ngấm vào tâm thức của những người thân, thế nên con gái lớn của ông bà tốt nghiệp trung cấp dược nhưng giờ vẫn đang làm tạp vụ ở Trung tâm dạy nghề TP.Thái Nguyên. Cậu út hoàn thành nghĩa vụ quân sự ở Sư đoàn 3 (Quân khu 1), hiện đang làm lái xe ở Tỉnh ủy Thái Nguyên. Bà Hằng, từ hồi chuyển nhà về TP.Thái Nguyên (2007) vẫn tần tảo kiếm sống từ nồi xôi, chảo bánh rán ở cổng chợ Túc Duyên. Bà tự hào: “Ông ấy là anh hùng với đất nước và chăm sóc gia đình tôi, là đủ rồi!”…
Mai Thanh Hải (Thanh niên)
Nguồn: Đấu trường dân chủ