Có thể thấy “Vương quốc Mông” thực tế là tổ chức “hư ảo”, do tay chân của Vàng Pao và các thế lực thù địch dựng lên nhằm lôi kéo, dụ dỗ một số người trong dân tộc Mông nhẹ dạ, cả tin đi theo để phục vụ cho mục đích gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc ở Việt Nam. Nó cũng là chiêu bài để các thế lực thù địch tập hợp lực lượng hòng gây rối, tạo sự bất ổn chống phá chính quyền Việt Nam. Do vậy, thời gian qua, dưới sự chỉ đạo của Cáp ủy Đảng, chính quyền các cấp, các cơ quan ban ngành đã phối hợp nhịp nhàng, làm tốt công tác phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động kích động ly khai dân tộc ở Việt Nam. Đặc biệt là công tác đấu tranh, xử lý mang tính nhân văn cao cả, chủ yếu giáo dục, vận động để đồng bào hiểu và không bị lợi tụ. Từ kết quả công tác đó, để góp phần triệt tiêu những điều kiện làm nảy sinh chiến tranh ly khai, giữ vững sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, góp phần thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, chúng ta cần chú trọng vào một số giải pháp cơ bản như sau:
Một là, cần đổi mới tư duy lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước trong hoạch định chủ trương, kế hoạch, giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi chiến tranh ly khai. Đây là vấn đề quyết định thắng lợi trong phòng, chống chiến tranh ly khai ở nước ta hiện nay. Vì thế, cần có tư duy khoa học ở “tầm chiến lược” về tình hình trong nước, khu vực và toàn cầu; đồng thời, phân tích, đánh giá, nhận diện kịp thời mọi sự chuyển biến, đưa ra dự báo chính xác tình hình. Việc làm này thực chất là nhận thức rõ, vạch ra mâu thuẫn các mặt đối lập trong quá trình tích hợp, chuyển hóa của những nguyên nhân, điều kiện trong và ngoài nước làm xuất hiện nguy cơ dẫn đến chiến tranh ly khai. Ở trong nước, cần xem xét mối quan hệ biện chứng giữa chiến tranh ly khai với sự phân hóa giàu – nghèo, chênh lệch mức sống giữa các tầng lớp dân cư, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; khắc phục nguy cơ “thoái hóa quyền lực”, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên; tình trạng tham nhũng, lãng phí, thiếu công khai, dân chủ, minh bạch,… làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Cùng với đó, cần làm rõ tình hình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; vấn đề dân tộc, tôn giáo, sự lợi dụng của các thế lực thù địch, nhằm phá hoại sự ổn định, phát triển của đất nước, v.v. Thực tế cho thấy, nguyên nhân, điều kiện bên trong bao giờ cũng được “tiếp sức” bởi sự biến động về tình hình kinh tế, chính trị trên thế giới và khu vực, xung đột vũ trang ở một số nước, khu vực; sự cấu kết giữa phản động người Việt lưu vong và phản động quốc tế với lực lượng cơ hội chính trị, bất mãn trong nước, v.v. Những vấn đề đó nếu không nhận thức và giải quyết hiệu quả, thì sẽ dần tạo nên mâu thuẫn nội bộ, làm ngòi nổ cho chiến tranh ly khai xảy ra. Vì thế, cần nhận thức “đúng và trúng” tổng thể nguyên nhân, điều kiện nảy sinh để hoạch định chủ trương, kế hoạch, giải pháp phòng, chống chiến tranh ly khai hiệu quả. Quá trình thực hiện, cần nhất quán quan điểm phòng, chống chiến tranh ly khai là một bộ phận không thể tách rời của Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; bảo đảm tính khoa học, đồng bộ, thống nhất từ Trung ương đến địa phương, có trọng tâm, trọng điểm, mang tính thực tiễn, khả thi, nhất là trong nhận thức đối tác, đối tượng, địa bàn chiến lược.
Hai là, thường xuyên củng cố, tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đại đoàn kết toàn dân tộc là bài học lớn trong tiến trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do đó, trong phòng, chống chiến tranh ly khai, đòi hỏi phải có giải pháp phù hợp để khơi dậy, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống đã được kết tinh trong chiều sâu lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, như: cả nước một lòng, toàn dân đánh giặc; lòng yêu nước, thương nòi sâu sắc; tinh thần nhân đạo, nhân văn cao cả; nghệ thuật đánh giặc kiên cường, sáng tạo, độc đáo, mang đậm bản sắc dân tộc. Để làm được điều đó, cần thực hiện tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, phát động các phong trào, cuộc vận động,… với những nội dung, hình thức phù hợp, thu hút đông đảo quần chúng, nhất là thế hệ trẻ tham gia, nhằm khơi dậy lòng yêu nước gắn với yêu chế độ xã hội chủ nghĩa, tăng cường cố kết dân tộc. Đồng thời, phát huy vai trò của các tổ chức chính trị – xã hội, trước hết là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc cả ở trong nước và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, “lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng, tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia – dân tộc”. Thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; Nghị quyết Trung ương 6 (khóa XII) về “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”; Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, v.v. Qua đó, tăng cường lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, năng lực quản lý, điều hành của Nhà nước và cấp ủy, chính quyền các cấp; sự tận tụy, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đây là yếu tố cốt lõi, điều kiện tiên quyết để xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc bảo đảm thực hiện thắng lợi việc phòng, chống chiến tranh ly khai ở nước ta.
Ba là, tăng cường sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân. Nền quốc phòng của nước ta là nền quốc phòng tự vệ, là sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế, chế độ chính trị, nền văn hóa và sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,… trong đó, sức mạnh quân sự giữ vai trò nòng cốt. Đó là nền tảng, vấn đề có tính quy luật bảo đảm vững chắc cho công cuộc bảo vệ Tổ quốc nói chung, phòng, chống chiến tranh ly khai ở nước ta nói riêng. Căn cứ vào yêu cầu hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới; thực lực, tiềm năng phát triển của đất nước trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại,… để hoạch định kế hoạch xây dựng các tiềm lực của nền quốc phòng toàn dân, gắn kết chặt chẽ giữa thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân, bảo đảm sát thực tế, khoa học, có tính khả thi cao. Kế hoạch phải được xác định rõ: mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể; nội dung, yêu cầu, giải pháp đảm bảo toàn diện, đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm. Đồng thời, nâng cao năng lực và “tài nghệ” khai thác tiềm lực của nền quốc phòng toàn dân, sẵn sàng chuyển hóa tiềm lực đó thành sức mạnh hiện thực để ngăn ngừa chiến tranh ly khai từ sớm, từ xa.
Bốn là, giải quyết tốt các vấn đề về “dân tộc”, “tôn giáo”, “dân chủ”, “nhân quyền”, không để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá. Dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền là những vấn đề nhạy cảm, liên quan chặt chẽ với nhau không chỉ ở Việt Nam mà ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Lịch sử chứng minh, khi nào các vấn đề về “dân tộc”, “tôn giáo”, “dân chủ”, “nhân quyền” được giải quyết thành công thì xã hội mới có sự ổn định, phát triển và ngược lại. Sự phức tạp và nhạy cảm của các vấn đề này có thể nảy sinh do sự vận động nội tại hoặc do các thế lực thù địch lợi dụng nhằm thực hiện mưu đồ, lợi ích chính trị của họ. Vì vậy, để phòng, chống hiệu quả chiến tranh ly khai, cần luận giải sâu sắc, thực chất âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng các vấn đề “dân tộc”, “tôn giáo”, “dân chủ”, “nhân quyền” để chống phá Đảng, chế độ; đồng thời, giải quyết đồng bộ các “mâu thuẫn” của nó theo quy định của Hiến pháp, pháp luật và truyền thống, tình cảm, đạo lý dân tộc. Đây là phương pháp hữu hiệu để “triệt tiêu” mầm mống nguy hiểm làm mất ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, dẫn đến nguy cơ xuất hiện chiến tranh ly khai. Cùng với đó, cần kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với Việt Nam; đẩy mạnh hợp tác, đối thoại trong lĩnh vực dân chủ, nhân quyền theo nguyên tắc bình đẳng, xây dựng, tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
Năm là, thực hiện tốt đường lối đối ngoại “độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế”. Đây là bài học truyền thống ngoại giao của ông cha ta và được Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta kế thừa phát triển lên tầm cao mới. Trong đó, tư tưởng cơ bản là: luôn coi trọng quan hệ với các nước trong khu vực và trên thế giới; hoạt động theo phương châm: chủ động, tích cực, sáng tạo, linh hoạt, phù hợp thực tế, để “thêm bạn, bớt thù”, tăng cường sức mạnh tổng hợp, phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực tế cho thấy, các nước dù lớn, hay nhỏ, ngoài thách thức bên trong còn có những tác động, thách thức bên ngoài liên quan đến chủ quyền quốc gia, lãnh thổ, cũng như vị thế, quan hệ của từng nước. Nếu chúng ta có quan hệ trong một khuôn khổ pháp lý, sẽ tăng cường được quan hệ đối tác, nền tảng về chính trị – tinh thần, tạo nên “một mặt trận” để bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, góp phần phòng, chống chiến tranh ly khai. Vì thế, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại “độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế” là điều kiện tiên quyết để giữ vững môi trường hòa bình, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội; kịp thời phát hiện âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch cấu kết với phản động trong nước chuẩn bị các điều kiện để phát động chiến tranh ly khai, tiến tới thực hiện mưu đồ xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đây là một “mặt trận” quan trọng trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc của Đảng, Nhà nước ta, nên cần phát huy các điểm tương đồng, thu hẹp bất đồng, thúc đẩy hợp tác quốc tế, bảo vệ lợi ích cơ bản, chính đáng của đất nước, của đối tác, lợi ích chung của khu vực và cộng đồng quốc tế. Trong thực hiện, phải tuân thủ nguyên tắc chiến lược, linh hoạt về sách lược, giữ vững độc lập, tự chủ, đẩy mạnh hợp tác, mở rộng quan hệ với tất cả các nước, chú trọng quan hệ với các nước láng giềng, các nước trong khu vực và các nước lớn; tích cực, chủ động tham gia các tổ chức đa phương. Đây còn là sự quán triệt, vận dụng hiệu quả phép biện chứng giữa đối tác và đối tượng, nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế, nhằm thúc đẩy vừa hợp tác, vừa đấu tranh, tránh trực diện đối đầu, tự đẩy mình vào cô lập.
Thực hiện tốt những nội dung, giải pháp cơ bản trên, sẽ triệt tiêu những điều kiện làm nảy sinh chiến tranh ly khai, giữ vững sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, góp phần thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mặt khác, hững hoạt như trên xác định là hoạt động đi ngược với chủ trương, đường lối của Đảng, vi phạm nghiêm trọng pháp luật của Việt Nam. Do đó, nếu các đối tượng vẫn tiếp tục tái diễn chắc chắn sẽ bị pháp luật trừng trị một cách nghiêm khắc.
(Bài viết có sự tham khảo một số nguồn tài liệu từ Bộ Quốc Phòng)
Nguồn: Bản tin dân chủ