Ngày 30/4/1982, Công ước Luật Biển 1982 được thông qua tại vịnh Montego nước Jamaica, nước CHXHCN Việt Nam là một trong 107 quốc gia tham gia ký Công ước. Ngày 23-6-1994, Quốc hội nước ta đã ra Nghị quyết về việc phê chuẩn văn kiện pháp lý quan trọng này. Điểm 1 trong Nghị quyết có nêu rõ việc phê chuẩn Công ước của LHQ về Luật Biển 1982, nước CHXHCN Việt Nam biểu thị quyết tâm cùng cộng đồng quốc tế xây dựng một trật tự pháp lý công bằng, khuyến khích sự phát triển và hợp tác trên biển.
Luật Biển (The Law of the Sea), là một tập hợp những chế định, quy định pháp lý dùng để điều chỉnh tất cả các quan hệ có liên quan diễn ra trên tất cả các vùng biển và thềm lục địa. Các chủ thể trong quan hệ quốc tế tham gia ký kết, gọi là Luật Biển quốc tế; còn nếu được bởi một quốc gia ven biển ban hành, gọi là Luật Biển quốc gia. Luật Biển quốc tế đang có hiệu lực hiện nay là Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (The United Nations Convention on the Law of the Sea, viết tắt là UNCLOS). UNCLOS là kết quả của Hội nghị về luật biển Liên Hợp Quốc lần thứ 3 diễn ra từ năm 1973 cho đến 1982, và bắt đầu có hiệu lực vào ngày 16/11/1994.
Công ước Luật biển là một bộ các quy định về sử dụng các đại dương của thế giới, chiếm 70% diện tích bề mặt Trái Đất. Công ước đã được ký kết năm 1982 để thay thế cho 4 hiệp ước năm 1958 đã hết hạn. UNCLOS có hiệu lực từ năm 1994. Đến ngày 20 tháng 9 2013, có 166 quốc gia và Cộng đồng châu Âu đã tham gia Công ước này (Riêng Hoa Kỳ chưa tham gia vì thấy chưa có lợi về an ninh và kinh tế).
Một phiên họp trong Hội nghị Liên hợp quốc lần thứ ba về Luật Biển (1973-1982), quá trình để UNCLOS hình thành và hiện hữu. Ảnh: Tư liệu
UNCLOS bao gồm rất nhiều điều khoản trong đó những điều khoản quan trọng nhất quy định về việc thiết lập các giới hạn, giao thông đường biển, trạng thái biển đảo, và các chế độ quá cảnh, các vùng đặc quyền kinh tế, quyền tài phán thềm lục địa, khai khoáng lòng biển sâu, chính sách khai thác, bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học, và dàn xếp các tranh chấp. Công ước đặt ra giới hạn cho nhiều khu vực, tính từ một đường cơ sở được định nghĩa kỹ càng. Thông thường, một đường biển cơ sở chạy theo đường bờ biển khi thủy triều xuống, nhưng khi đường bờ biển bị thụt sâu, có đảo ven bờ, hoặc đường bờ biển rất không ổn định, có thể sử dụng các đường thẳng làm đường cơ sở.
Tính đến năm 2014, Công ước đã được 166 quốc gia phê chuẩn và bao gồm 320 điều khoản và 9 phụ lục quy định các chủ đề như: Phân vùng biển, Dẫn đường, Tình trạng quần đảo và chế độ quá cảnh, Vùng đặc quyền kinh tế, Quyền tài phán của thềm lục địa, Hoạt động khai thác đáy biển, Bảo vệ môi trường biển, Nghiên cứu khoa học và giải quyết tranh chấp…
Với tư cách là một ngành của Luật quốc tế, Luật biển hình thành và phát triển dựa trên những nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế nói chung, đó là: bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia; cấm sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực; giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế; không can thiệp vào công việc nội bộ; các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác; dân tộc tự quyết; và tự nguyện thực hiện các cam kết quốc tế.
Các vùng biển của một quốc gia ven biển. Ảnh: Tư liệu
– Nguyên tắc tự do biển cả:
Theo quy định Điều 86 UNCLOS, biển cả bao gồm tất cả những vùng biển không nằm trong vùng đặc quyền về kinh tế, lãnh hải hay nội thủy của một quốc gia, cũng như không nằm trong vùng nước quần đảo của một quốc gia quần đảo. Điều đó có nghĩa là quy chế pháp lý của biển cả cũng áp dụng cho cả đáy biển và lòng đất dưới đáy biển mà không vi phạm vào các quy định riêng áp dụng cho thềm lục địa và vùng đáy biển quốc tế.
Vì tồn tại một cách khách quan và không thuộc sở hữu của bất kỳ quốc gia nào nên quy chế pháp lý của Biển cả là quy chế tự do. Có nghĩa rằng biển cả được để ngỏ cho tất cả các quốc gia, dù có biển hay không có biển. Quyền tự do trên biển cả được thực hiện trong những điều kiện do các quy định của Công ước hay những quy tắc khác của pháp luật quốc tế trù định. Trên biển cả, tất cả các quốc gia đều có các quyền tự do biển cả, nhưng việc thực hiện các quyền đó cần tuân thủ các điều kiện theo quy định của Công ước này và các quy định khác của luật quốc tế, bao gồm: Tự do hàng hải; Tự do hàng không; Tự do đặt dây cáp và ống dẫn ngầm; Tự do xây dựng các đảo nhân tạo và các thiết bị khác được pháp luật cho phép; Tự do đánh bắt hải sản; Tự do nghiên cứu khoa học.
Ngoài ra, nguyên tắc này còn đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh pháp lý đối với các hoạt động khai thác tài nguyên thiên nhiên ở biển cả và đáy đại dương. Mặt khác, nguyên tắc tự do biển cả là cơ sở pháp lý để giải quyết các vấn đề về khai thác tài nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa, đáy biển và vùng đặc quyền kinh tế. Theo UNCLOS, Biển là được để ngỏ cho tất cả các quốc gia dù có biển hay không có biển, điều này có nghĩa là các quốc gia có những quyền tự do trong sử dụng biển cũng như hưởng lợi ích từ biển. Bên cạnh các quyền được quy định cụ thể trong Điều 87 của UNCLOS, các quốc gia có thể tự do trên biển, tuy nhiên việc thực hiện phải tính đến lợi ích của việc thực hiện quyền tự do trên biển của các quốc gia khác, cũng như đến các quyền được Công ước thừa nhận liên quan đến hoạt động trong vùng và thực hiện trong khuôn khổ quy định của Luật biển quốc tế, chứ không phải là sự tự do không có hạn chế hoặc tùy tiện sử dụng biển cả.
Ảnh minh họa: Xuân Hoàng
Trên biển cả, tất cả các quốc gia đều có các quyền tự do biển cả, nhưng việc thực hiện các quyền đó cần tuân thủ các điều kiện theo quy định của Công ước này và các quy định khác của luật quốc tế…
Từ thế kỷ 17, Việt Nam đã là nước thực hiện “nguyên tắc tự do biển cả” khi cho phép tàu thuyền của tất cả các quốc gia trên thế giới đi vào vùng biển và các quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam. Chính quyền Việt Nam còn rất thiện chí bởi hành động cứu trợ cứu nạn các tàu thuyền quốc tế trên vùng biển đặc quyền kinh tế của mình, mà sự việc thuyền buôn nước Anh đi qua Hoàng Sa bị mắc cạn và đắm khiến 90 người phải đi thuyền tam bản tới bờ biển tỉnh Bình Định và mùa đông tháng 12 năm 1836. Vua Minh Mệnh hay tin liền chỉ đạo quan tỉnh lựa nơi cho họ trú ngụ, hậu cấp cho tiền và gạo; lại phái thị vệ thông ngôn đến dịch lời thăm hỏi, tuyên Chỉ ban cấp. Đồng thời Sắc sai phái viên sang Tây là Nguyễn Tri Phương và Vũ Văn Giải đưa họ sang bến tàu Hạ Châu để về nước.
– Nguyên tắc đất thống trị biển:
Nguyên tắc này được Điều 76 của Công ước Luật Biển 1982 khẳng định: “Thềm lục địa của một quốc gia ven biển, bao gồm: đáy biển và vùng đất dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải của quốc gia đó, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia đó cho đến bờ ngoài của rìa lục địa, hoặc đến cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 200 hải lý khi bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia đó ở khoảng cách gần hơn”. Theo nguyên tắc, việc mở rộng chủ quyền của quốc gia ra biển không thể tách rời yếu tố chủ quyền lãnh thổ. Yếu tố lãnh thổ theo ghi nhận của nguyên tắc này là lãnh thổ đất (bao gồm cả đảo tự nhiên và quần đảo). Nguyên tắc “Đất thống trị biển” có ý nghĩa quan trọng đối với các quốc gia ven biển, nhất là các quốc gia đang phát triển. Nó là cơ sở để khẳng định chủ quyền, quyền tài phán của quốc gia trên biển, góp phần giải quyết công bằng và hiệu quả tranh chấp trên biển giữa các quốc gia.
Đảo Sinh tồn trong quần đảo Trường Sa. Ảnh: Tiến Đông
Nguyên tắc “Đất thống trị biển” có ý nghĩa quan trọng đối với các quốc gia ven biển, nhất là các quốc gia đang phát triển. Nó là cơ sở để khẳng định chủ quyền, quyền tài phán của quốc gia trên biển, góp phần giải quyết công bằng và hiệu quả tranh chấp trên biển giữa các quốc gia.
– Nguyên tắc bảo vệ môi trường biển:
Biển là nguồn cung cấp thức ăn, nguồn lực để phát triển kinh tế xã hội, đồng thời biển cũng là môi trường sống của con người. Thế kỷ XX, cùng với quá trình phát triển kinh tế khu vực và toàn cầu, môi trường nói chung và môi trường biển nói riêng đang đối mặt với nguy cơ bị ô nhiễm nghiêm trọng từ hoạt động khai thác của con người. Nếu không có những biên pháp khắc phục kịp thời, một khi sự cân bằng sinh thái của biển bị phá vỡ, biển sẽ có những tác động xấu đến đời sống của con người. Nhận thức được điều này, vấn đề bảo vệ môi trường biển được các quốc gia quan tâm; nhiều Công ước Quốc tế về Bảo vệ môi trường biển ra đời như: Công ước Brukxen 1969 về Các biện pháp chống ô nhiễm dầu do các vụ tai nạn trên biển cả, Công ước London 1972 về Ngăn ngừa ô nhiễm biển từ các chất thải do tàu và các chất thải khác…; đặc biệt là Công ước Luật Biển 1982. Các Công ước này đã tạo cơ sở và hành lang pháp lý cho việc gìn giữ môi trường biển, ngăn ngừa ô nhiễm trên biển.
Ở cấp độ quốc tế, liên quan đến việc bảo vệ môi trường biển khỏi ô nhiễm liên quan đến hàng hải, Tổ chức Hàng hải Quốc tế IMO, cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc về vận tải hàng hải, được coi là có liên quan đặc biệt, trong đó một loạt các công ước về bảo vệ các hệ sinh thái biển khỏi các áp lực và tác động do giao thông hàng hải gây ra, thông qua các quy tắc điều chỉnh mọi hoạt động liên quan đến hoạt động của tàu thuyền, có thể tạo thành các mối đe dọa có thể xảy ra đối với các hệ sinh thái biển và ven biển.
Để thực hiện việc bảo vệ môi trường biển, Công ước có nhiều quy định: xác định các biện pháp nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển; hợp tác trên phạm vi thế giới và khu vực nhằm bảo vệ và giữ gìn môi trường biển; trợ giúp kỹ thuật cho các nước đang phát triển trong việc bảo vệ và giữ gìn môi trường biển; giám sát việc đánh cá và sinh thái biển. Nguyên tắc bảo vệ môi trường biển cũng là một sự thể hiện mối quan hệ giữa sử dụng và bảo tồn trong khai thác môi trường nói chung và môi trường biển nói riêng. Do vậy, việc hiểu và thực hiện nghiêm túc nguyên tắc này của các quốc gia có ý nghĩa to lớn trong việc bảo tồn và duy trì một môi trường sống bền vững cho xã hội loài người.
Phía Nam đảo Phú Quốc nhìn từ trên cao. Ảnh: Tư liệu
– Nguyên tắc sử dụng biển cả vì mục đích hòa bình:
Nguyên tắc này được Điều 88 Công ước Luật Biển 1982 quy định: “Biển cả được sử dụng vào các mục đích hòa bình”. Biển là vùng biển chung của cộng đồng quốc tế với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng. Việc sử dụng biển đúng cách sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển chung của nhân loại; ngược lại, sử dụng biển cả một cách tiêu cực sẽ đe dọa tới hòa bình và an ninh quốc tế. Vì vậy, quy chế pháp lý của biển cả phải được xây dựng đảm bảo vùng biển này chỉ được sử dụng vì các mục đích hòa bình.
Một trong những nội dung của nguyên tắc này là các quốc gia không được sử dụng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực ở vùng biển cả. Điều này có nghĩa là cấm mọi hoạt động quân sự ở biển. Trên cơ sở nguyên tắc này, Hiệp định về cấm phổ biến vũ khí hạt nhân và vũ khí giết người hàng loạt khác ở đáy biển và biển được ký kết năm 1971. Tuy nhiên, theo đánh giá của nhiều nhà chuyên môn thì các quy định của Công ước 1982 về vấn đề này vẫn chưa cụ thể và chưa có một cơ chế để thực thi trên thực tế. Ví dụ trên thực tế nhiều cường quốc vẫn triển khai các tàu ngầm hạt nhân và tàu ngầm quân sự để nhằm kiểm soát vùng biển cả.
Ngoài ra, nguyên tắc này cũng phải được hiểu thêm ở một khía cạnh khác đó là việc khai thác, sử dụng biển cả đòi hỏi phải có sự hợp tác giữa các quốc gia và hơn hết là phải có quy hoạch, kế hoạch nhằm đảm bảo lợi ích chung của cộng đồng quốc tế.
– Nguyên tắc giữ gìn di sản chung của nhân loại:
Theo Điều 136 Công ước Luật Biển 1982, Vùng và tài nguyên của vùng là di sản chung của loài người. Quy định này loại bỏ sự độc quyền chiếm đoạt đối với bất kỳ nguồn tài nguyên nào trên Vùng. Nguyên tắc này và nguyên tắc tự do biển cả là cơ sở pháp lý quan trọng để xây dựng và đảm bảo thực thi chế độ pháp lý đối với việc khai thác tài nguyên thiên nhiên của Vùng. Trong cách xử sự chung liên quan đến Vùng, các quốc gia tuân theo quy định của Công ước Luật Biển 1982, các nguyên tắc được nêu trong Hiến chương Liên Hợp quốc và các quy tắc khác của pháp luật quốc tế, với sự quan tâm giữ gìn hòa bình, an ninh, đẩy mạnh hợp tác quốc tế và hiểu biết lẫn nhau (Điều 138 Công ước Luật Biển 1982).
Vùng đáy biển và vùng lòng đất dưới đáy biển – nơi được xem là di sản chung của nhân loại.
Đây là một nguyên tắc đặc thù của luật biển, đặc biệt áp dụng cho vùng đáy biển và vùng lòng đất dưới đáy biển – nơi được xem là di sản chung của nhân loại. Theo nguyên tắc chung, vùng biển này là của chung, không thuộc về quyền sở hữu của bất kỳ một quốc gia hay tổ chức quốc tế nào. Trong thực tế thì việc khai thác và sử dụng vùng biển di sản này vẫn còn nhiều hạn chế do nhiều lý do. Vấn đề quan trọng nhất đó là với khả năng công nghệ hiện tại của con người, họ chưa thể tìm hiểu và đi xuống những độ sâu của vùng biển di sản. Chính vì lẽ đó, hiện tại chúng ta vẫn chưa biết được chính xác ở vùng biển di sản tồn tại những loại tài nguyên gì, trữ lượng ra sao… Tuy vậy, việc quy định nguyên tắc giữ gìn di sản chung của nhân loại có ý nghĩa quan trọng trong việc hình thành và thực hiện chế độ pháp lý về khai thác tài nguyên thiên nhiên ở đáy biển và vùng lòng đất dưới đáy biển. Nguyên tắc này bao gồm những nội dung sau:
+ Không một quốc gia nào có thể đòi thực hiện chủ quyền hay các quyền thuộc chủ quyền khác ở một phần nào đó của vùng đáy biển và vùng lòng đất dưới đáy biển
+ Không một quốc gia, pháp nhân hay cá nhân nào có thể chiếm đoạt bất cứ phần nào đó của vùng biển di sản.
+ Toàn thể loài người mà cơ quan Quyền lực quốc tế là đại diện có thẩm quyền tổ chức khai thác, quản lý và kiểm soát việc thực hiện các quyền đối với tài nguyên của vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển.
+ Hoạt động ở vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển được tiến hành vì lợi ích chung của nhân loại;
+ Vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển chỉ có thể được sử dụng vào mục đích hòa bình.
Như vậy, Công ước Liên hợp quốc về Luật biển được thúc đẩy bởi sự mong muốn và trên tinh thần hiểu biết hợp tác lẫn nhau giữa các quốc gia trên thế giới. Tất cả các vấn đề liên quan đến luật biển, và nhận thức được ý nghĩa lịch sử của Công ước này chính là đóng góp quan trọng trong việc duy trì hòa bình, công lý và tiến bộ của tất cả các dân tộc trên thế giới.
Kể từ khi tham gia Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982, nước CHXHCN Việt Nam luôn thể hiện là thành viên có tinh thần trách nhiệm, tôn trọng và thực thi đầy đủ các quyền và nghĩa vụ. Nước CHXHCN Việt Nam khẳng định các vùng nội thủy, lãnh hải, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng ĐQKT và thềm lục địa Việt Nam trên cơ sở các quy định của Công ước và các nguyên tắc của pháp luật quốc tế, yêu cầu các nước khác tôn trọng các quyền nói trên của Việt Nam. Đồng thời, một lần nữa khẳng định chủ quyền bất di bất dịch của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa. Việt Nam có quyền xác định các vùng biển và thềm lục địa theo Công ước, nhưng đồng thời cũng có nghĩa vụ tiến hành phân định các vùng biển và thềm lục địa ở những khu vực chồng lấn với các nước láng giềng. Sau khi Công ước có hiệu lực, trên cơ sở tôn trọng chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ lãnh hải lẫn nhau, Việt Nam đã bắt tay vào việc phân định biển với các nước láng giềng, có thể kể ra như sau:
– Hiệp định phân định ranh giới trên biển giữa nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Vương quốc Thái Lan được ký kết vào ngày 9 tháng 8 năm 1997 tại thủ đô Bangkok. Hiệp định này đã chấm dứt tranh cãi giữa Việt Nam và Thái Lan trong hơn 2 thập niên về giải thích và áp dụng luật biển trong phân định vùng chồng lấn giữa hai nước. Đây là hiệp định phân định biển đầu tiên đạt được trong vịnh Thái Lan, đồng thời cũng là hiệp định phân định biển đầu tiên được ký kết tại khu vực Đông Nam Á sau khi Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982 có hiệu lực. Đối với Việt Nam, đây là Hiệp định phân định biển đầu tiên đạt được với các nước láng giềng. Theo hiệp định, đảo Thổ Chu được hưởng 32,5% hiệu lực, Việt Nam được hưởng 1/3 diện tích và Thái Lan được hưởng 2/3 diện tích của 6.074 km² vùng biển chồng lấn.
Đoàn đại biểu nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam trao cho đại diện Ủy ban Ranh giới thềm lục địa Liên hiệp quốc (CLCS) Hồ sơ Đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý của Việt Nam tại khu vực Giữa Biển Đông. Ảnh: baochinhphu.vn
– Hiệp định Phân định Vịnh Bắc Bộ giữa nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, ký ngày 25 tháng 12 năm 2000 tại Bắc Kinh nhằm xác định biên giới lãnh hải, thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế trong Vịnh Bắc Bộ.
– Hiệp định phân định ranh giới thềm lục địa giữa chính phủ nước Cộng hòaCộng hòaCộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hoà Indonesia vào ngày 26 tháng 6 năm 2003 tại Hà Nội. Hiệp định có hiệu lực từ ngày 29 tháng 5 năm 2007.
– Thỏa thuận cùng hợp tác khai thác chung vùng chồng lấn và vạch đường phân định thềm lục địa trong vùng chồng lấn giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Malaysia, từ ngày 3 đến 5-6-1992, tại Kuala Lumpur.
– Hiệp định về Vùng nước lịch sử giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Vương quốc Campuchia, vào ngày 07/7/1982, nhằm thỏa thuận, thống nhất chủ quyền pháp lý các đảo, phạm vi, quyền hạn quản lý, khai thác, sử dụng các nguồn lợi trong Vùng nước lịch sử của mỗi quốc gia; đồng thời, chấm dứt việc tranh chấp chủ quyền biển, đảo diễn ra phức tạp, lâu dài trong lịch sử quan hệ giữa hai nước trên khu vực Vịnh Thái Lan (phía Tây Nam Việt Nam). Hiệp định đã xác định rõ phạm vi Vùng nước lịch sử chung của hai nước là: vùng biển nằm giữa bờ biển tỉnh Kiên Giang, đảo Phú Quốc và quần đảo Thổ Chu của Việt Nam với bờ biển tỉnh Kampot và nhóm đảo Poulowai của Campuchia. Theo đó, hai nước có quyền áp dụng quy chế pháp lý trên vùng nước lịch sử như chế độ vùng nội thủy.
Những hiệp định kể trên, Việt Nam luôn thể hiện là thành viên tuân thủ tuyệt đối những nguyên tắc của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển, tôn trọng lãnh hải của các quốc gia láng giềng. Việc thực hiện đúng và đủ các nguyên tắc trên đã thực sự góp phần thực hiện một trật tự kinh tế quốc tế công bằng và bình đẳng, đảm bảo hài hòa lợi ích và nhu cầu giữa các nước; đồng thời củng cố hòa bình, an ninh, hợp tác và quan hệ hữu nghị giữa tất cả các quốc gia, thúc đẩy sự tiến bộ về kinh tế và xã hội của các nước trong khu vực nói riêng và tất cả các dân tộc trên thế giới nói chung, phù hợp với các mục đích và nguyên tắc của Liên Hợp Quốc.
Ảnh: Tư liệu
Việt Nam luôn thể hiện là thành viên tuân thủ tuyệt đối những nguyên tắc của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển, tôn trọng lãnh hải của các quốc gia láng giếng.
Điều này cũng thể hiện rằng việc Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với hơn 100 đảo và rạn san hô ngầm ở Biển Đông, tức yêu sách chủ quyền đối với các thực thể biển dưới mực nước biển, là hoàn toàn phi lý. Trung Quốc đã vẽ và bao quanh các đảo và rạn san hô, vùng nước cũng như các đảo và rạng san hô dưới nước ở Biển Đông là lãnh thổ của mình dưới dạng “đường tham chiếu thẳng” tức đường chín đoạn. Các giới hạn hàng hải này không đáp ứng các tiêu chí địa lý của một đường cơ sở thẳng theo Công ước. Bởi, theo UNCLOS 1982 thì các đảo và rạn san hô dưới biển này không có lãnh thổ hợp pháp và không thể được tuyên bố là lãnh hải. Như vậy rõ ràng xét theo Luật pháp quốc tế thì những tuyên bố của Trung Quốc nói trên là vô căn cứ và hoàn toàn không có giá trị pháp lý. Những yêu sách chủ quyền hoặc quyền tài phán độc quyền đối với phần lớn Biển Đông của Trung Quốc là bất hợp pháp, bởi nó mâu thuẫn hoàn toàn với các quy định của Luật pháp quốc tế.
Chính vì vậy, trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền của Việt Nam đối với vùng lãnh thổ lãnh hải mà đặc biệt là hai quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa, bên cạnh Công ước Luật biển 1982, Việt Nam luôn có đầy đủ những chứng cứ khoa học lịch sử và pháp lý chứng minh chủ quyền của Việt Nam đã được xác lập liên tục, hòa bình từ lâu đời đối với hai quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa. Đây là những công cụ pháp lý để phản bác những yêu sách phi lý của Trung Quốc đối với cái gọi là “đường lưỡi bò” chiếm đến 80% diện tích Biển Đông, vốn là vùng biển được bao bọc bởi 9 quốc gia, trong đó có nước CHXHCN Việt Nam.
Trong Hiến pháp các năm 1980, 1992, Luật biên giới quốc gia năm 2003, Việt Nam đã khẳng định rõ ràng chủ quyền của Việt Nam ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trong các năm 1979, 1981, 1998, Bộ Ngoại giao nước CHXHCN Việt Nam công bố các sách trắng về chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Các tài liệu này đã chứng minh rõ ràng chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên tất cả các cơ sở lịch sử, pháp lý và thực tiễn.
Bản đồ Vùng biển và Đảo Việt Nam.
Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam nhấn mạnh, cần phân biệt vấn đề giải quyết tranh chấp về quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa với vấn đề bảo vệ các vùng biển và thềm lục địa thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam căn cứ vào những nguyên tắc và những tiêu chuẩn của Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982. Như vậy, lập trường của nước CHXHCN Việt Nam là chiếm hữu thật sự hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa muộn nhất là từ thế kỷ XVII khi nó được ghi vào văn bản của những tác phẩm lịch sử địa dư do người Việt biên soạn và không hề thuộc chủ quyền của bất cứ một quốc gia nào khác cũng như có tranh chấp về chủ quyền với một quốc gia khác. Người Việt đã thực hiện chủ quyền của mình một cách liên tục và hòa bình cho đến khi nó bị nhiều nước khác xâm chiếm trái phép./.
Nguồn: Báo Nghệ An