Trang chủ Luận bàn - Phản biện Cáo buộc phi lí về tự do tôn giáo

Cáo buộc phi lí về tự do tôn giáo

78
0

Ngày 2/12/2022 vừa qua, trên website của Bộ Ngoại giao Mỹ đã đưa Việt Nam vào cái gọi là “Danh sách theo dõi đặc biệt về tự do tôn giáo”. Điều này gây nên những phản ứng của dư luận xã hội về sự thiếu khách quan trong nhìn nhận, đánh giá thực chất vấn đề tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam, đồng thời thể hiện góc nhìn sai lệch của Bộ Ngoại giao Mỹ.

Cáo buộc phi lí về tự do tôn giáo

Theo cáo buộc của Bộ Ngoại giao Mỹ, Việt Nam cùng 3 nước khác là Algeria, Cộng hòa Trung Phi, Comoros thuộc cái gọi là “Danh sách giám sát đặc biệt về tự do tôn giáo”. Lý do phía Mỹ đưa ra là Việt Nam trong năm 2022 đã “can dự vào hay dung thứ cho những vi phạm nghiêm trọng quyền tự do tôn giáo”. Đồng thời với Bộ Ngoại giao Mỹ là tổ chức Ủy hội Hoa Kỳ về Tự do Tôn giáo quốc tế (USCIRF) cũng công bố báo cáo mới về “Danh sách nạn nhân tự do tôn giáo hay niềm tin”, theo đó cáo buộc Việt Nam chưa tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của các cá nhân, tổ chức tôn giáo, đặc biệt tổ chức tôn giáo chưa được công nhận tư cách pháp nhân.

Trước những cáo buộc phi lý của Bộ Ngoại giao Mỹ, Việt Nam đã có những phản hồi chính thức về vấn đề này. Cụ thể, ngày 15/12/2022, Phó phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng khẳng định: “Việc Mỹ đưa Việt Nam vào danh sách theo dõi đặc biệt về tự do tôn giáo là dựa trên những đánh giá thiếu khách quan cũng như các thông tin không chính xác về tình hình tự do tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam”.

Từ nội dung tuyên bố trên của Bộ Ngoại giao Việt Nam cũng như từ thực tiễn tình hình tự do tôn giáo cho thấy, Việt Nam có đầy đủ cơ sở chính trị, cơ sở pháp lý vững chắc để chứng minh những điều mà Bộ Ngoại giao Mỹ đã nêu trong báo cáo là không chính xác, thiếu khách quan. Cụ thể:

Thứ nhất, việc Bộ Ngoại giao Mỹ đưa Việt Nam vào danh sách theo dõi đặc biệt về tự do tôn giáo là dựa trên những đánh giá thiếu khách quan, công bằng. Bộ Ngoại giao Mỹ đơn phương đưa ra danh sách để đánh giá một quốc gia có chủ quyền, độc lập như Việt Nam là đi ngược lại quy định Hiến chương của Liên Hợp Quốc (LHQ) năm 1946. Mặt khác, cáo buộc này đã phủ nhận những nỗ lực của Việt Nam khi tham gia vào “Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966” mà Việt Nam gia nhập ngày 24/9/1982 với điều 18 cam kết về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo “Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo. Quyền này bao gồm tự do có hoặc theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng do mình lựa chọn, và tự do bày tỏ tín ngưỡng hoặc tôn giáo một mình hoặc trong cộng đồng với những người khác, công khai hoặc kín đáo, dưới các hình thức như thờ cúng, cầu nguyện, thực hành và truyền giảng” (khoản 1, Điều 18 Công ước năm 1966).

Thực tế tại Việt Nam, tình hình tự do tôn giáo được khẳng định rõ trong Hiến pháp, pháp luật và được tôn trọng, bảo đảm trên thực tế. Nhiều năm qua, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, trong đó có tín đồ, chức sắc tôn giáo được nâng cao, đã có những bước chuyển biến rất rõ nét, được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Đặc biệt với việc Việt Nam 2 lần trúng cử vào Hội đồng Nhân quyền LHQ (nhiệm kỳ 2014-2016 và nhiệm kỳ 2023-2025) với số phiếu bầu cao cho thấy sự tín nhiệm của các nước trên thế giới với cách nhìn nhận đánh giá đúng đắn, công tâm về tiến trình bảo đảm nhân quyền nói chung và quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam nói riêng.

Ngoài ra, những thành tựu gần đây về tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam được bạn bè quốc tế ghi nhận như tổ chức thành công 3 lần Đại lễ VESAK LHQ các năm 2008, 2014 và năm 2019; Việt Nam đã cùng với Giáo hội Công giáo hoàn vũ (Vatican) tổ chức 9 vòng đối thoại thường niên để tiến tới xây dựng quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam – Vatican phục vụ lợi ích giữa giáo hội, giáo dân và dân tộc Việt Nam. Đến nay, số lượng các tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận là 16 tôn giáo, 43 tổ chức đăng ký hoạt động tôn giáo, nhiều tổ chức tôn giáo mới hình thành đều được các cơ quan, ban, ngành chức năng hướng dẫn tỉ mỉ theo quy định Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2106 đảm bảo tính thống nhất, ổn định và tuân thủ quy định của luật pháp Việt Nam.

Thứ hai, cáo buộc của Bộ Ngoại giao Mỹ dựa trên những thông tin không chính xác về tình hình tự do tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam. Bộ Ngoại giao Mỹ thường cử các phái đoàn ngoại giao vào Việt Nam để theo dõi, quan sát về tình hình tự do tôn giáo, điều này phù hợp với tinh thần đối thoại, hợp tác lẫn nhau giữa Việt Nam và Mỹ. Tính từ năm 2006 đến nay, phía Mỹ hằng năm thường xuyên cử các phái đoàn hỗn hợp của Bộ Ngoại giao, Quốc hội Mỹ, tổ chức phi chính phủ trực thuộc các cơ quan, ban, ngành của Mỹ đến thăm, tiếp xúc làm việc với các cá nhân, chức sắc, tín đồ và tham dự các hội thảo, hội luận, tọa đàm do chính quyền Việt Nam tổ chức để làm rõ hơn quy cách quản lý nhà nước đối với lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo tại Việt Nam.

Tuy nhiên, Mỹ thường cử phái đoàn đến thăm gặp, tiếp xúc với cá nhân là chức sắc, tín đồ tôn giáo có những hoạt động vi phạm pháp luật hoặc những hội nhóm chưa đủ điều kiện công nhận về tổ chức tôn giáo theo quy định pháp luật. Đơn cử vào tháng 5 và tháng 10/2022, Bộ Ngoại giao Mỹ đã cử phái đoàn vào Việt Nam để khảo sát tình hình tự do tôn giáo chỉ tiếp xúc với các hội nhóm tôn giáo chưa được công nhận, thường xuyên vi phạm pháp luật như “Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất”, “Pháp luân công”, “Tin lành Đấng Christ các dân tộc Việt Nam”, “nhóm Cao Đài, Hòa Hảo độc lập”, “tổ chức bất hợp pháp Dương Văn Mình”… Họ lên tiếng bênh vực những cá nhân vi phạm pháp luật như đối tượng Nguyễn Năng Tĩnh, Lê Đình Lượng, Hồ Đức Hòa… trong Công giáo; đối tượng Nguyễn Trung Tôn, Y Hinnie, A Ga, A Đảo… trong đạo Tin lành; đối tượng Thích Không Tánh, Thích Tuệ Sỹ trong “Phật giáo Việt Nam thống nhất”. Thậm chí, những kẻ cố tình lợi dụng danh nghĩa tín ngưỡng, tôn giáo như đối tượng Lê Tùng Vân tại “Thiền am bên bờ vũ trụ” (còn gọi là Tịnh thất Bồng Lai), tỉnh Long An cũng được phía Mỹ liệt kê vào danh sách cần “quan tâm, bảo vệ”.

Chính từ thu nhận bởi những tiếng nói của các cá nhân, tín đồ vi phạm pháp luật như trên nên phía Bộ Ngoại giao Mỹ đã vin vào đó để quy kết phía Việt Nam đang “đàn áp tự do tôn giáo” và cho rằng, việc xử lý những đối tượng vi phạm pháp luật, phạm tội là “xử lý và đàn áp tôn giáo”. Điều này thể hiện cách nhìn nhận thiếu khách quan và áp đặt tiêu chuẩn tự do tôn giáo của Mỹ đối với Việt Nam.

Thứ ba, Việt Nam và Mỹ đã xây dựng được cơ chế đối thoại trên cơ sở niềm tin, bình đẳng và hướng đến sự ổn định phát triển giữa hai quốc gia, dân tộc. Những năm qua, hai nước đã thường xuyên tổ chức “Đối thoại Nhân quyền thường niên Hoa Kỳ – Việt Nam” nhằm trao đổi, đối thoại giải quyết những vướng mắc, bất đồng xung quanh vấn đề nhân quyền và tự do tôn giáo. Năm 2022, hai nước đã tổ chức cuộc họp Đối thoại nhân quyền tại Mỹ thu được kết quả thành công tốt đẹp, mở ra triển vọng mới về cải thiện nhân quyền tích cực ở Việt Nam trong thời gian tới.

Thế nhưng, Bộ Ngoại giao Mỹ đơn phương đưa Việt Nam vào “Danh sách theo dõi đặc biệt về tự do tôn giáo” năm 2022 đã phủ nhận những nỗ lực của Chính phủ hai nước Việt Nam – Hoa Kỳ trong tiến trình tạo niềm tin, củng cố quan hệ ngoại giao. Việc đưa ra những đánh giá, nhận định nêu trên của Bộ Ngoại giao Mỹ đã tạo thêm những cơ sở, điều kiện để các thế lực thù địch, đối tượng cơ hội chính trị tuyên truyền xuyên tạc sai lệch bản chất vấn đề tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.

Thứ tư, Việt Nam có đầy đủ căn cứ pháp lý để bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo với tổ chức, cá nhân chức sắc, tín đồ. Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 (có hiệu lực thi hành năm 2018), Nghị định 162/NĐ-CP quy định một số điều và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016; Nghị quyết số 25/NQ-TƯ ngày 12/3/2003, Hội nghị Trung ương 7, Khóa IX về công tác tôn giáo, nêu 5 quan điểm về chính sách trong bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho chức sắc, tín đồ. Những quy định này đã tạo cơ sở cho những phát triển, thành tựu trên lĩnh vực tôn giáo, trong đó nhìn nhận yếu tố tín ngưỡng, tôn giáo là “nhu cầu không thể thiếu của một bộ phận người dân” và “Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tôn giáo”; xác định tín ngưỡng, tôn giáo là nguồn lực quan trọng mà các cơ quan, ban, ngành chức năng trong hệ thống chính trị phải phát huy nguồn lực này góp phần xây dựng, phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng thiết chế văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, gắn tín ngưỡng, tôn giáo với đạo đức con người, văn hóa dân tộc.

Thứ năm, sự phát triển lớn mạnh của các tổ chức tôn giáo ở trong nước và liên kết quan hệ quốc tế trong tôn giáo là minh chứng cho thấy tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam đang từng bước hội nhập sâu vào thế giới. Định hướng phát triển của các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam có thể thấy rõ thông qua nội dung Hiến chương, điều lệ, quy định của tôn giáo luôn bám sát yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế. Chẳng hạn, Phật giáo luôn kiên định con đường “Đạo pháp dân tộc và chủ nghĩa xã hội”; Công giáo tự hào với quan điểm “sống phúc âm trong lòng dân tộc”; đạo Tin lành với Hiến chương “phụng sự Thiên Chúa, phục vụ Tổ quốc”; đạo Cao Đài với khẩu hiệu “nước vinh – đạo sáng”… đã khơi dậy truyền thống gắn kết giữa tín ngưỡng, tôn giáo với tinh thần tự lực, tự cường, độc lập dân tộc.

Mặt khác, trong xu thế mở cửa hội nhập hiện nay, nhiều tổ chức tôn giáo ở Việt Nam đã vươn mình, khẳng định sự lớn mạnh bằng việc tổ chức các sự kiện hành hương, đại lễ, lễ trọng thu hút sự quan tâm của dư luận quốc tế. Cụ thể: Đại lễ VESAK Phật giáo LHQ năm 2019 diễn ra tại chùa Tam Chúc, Hà Nam đã có hơn 500 phái đoàn quốc tế đến tham dự; lễ hành hương tại La Vang (Quảng Trị), Sở Kiện (Hà Nam) của Công giáo Việt Nam đã thu hút sự tham gia của hàng trăm tổ chức Công giáo trên thế giới đến hành hương, chiêm bái. Những điều này thể hiện rõ tầm ảnh hưởng của các tổ chức tôn giáo Việt Nam đối với sự phát triển kinh tế, xã hội trong nước; đồng thời xây dựng hình ảnh một đất nước Việt Nam có đầy đủ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

Tóm lại, từ những thành tựu có được trong bức tranh về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam là minh chứng sống động cho thấy hơn bao giờ hết tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam trở thành động lực, yếu tố thúc đẩy gắn kết, đoàn kết xã hội, xây dựng xã hội mang bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Những cáo buộc của phía Mỹ khi đưa Việt Nam vào “danh sách cần giám sát đặc biệt về tự do tôn giáo” thực sự chưa thể hiện góc độ tiếp cận tích cực, thiếu căn cứ pháp lý, đi ngược lại những cam kết mà phía Mỹ và Việt Nam đã ký kết, thỏa thuận. Hi vọng rằng trong thời gian tới, phía Bộ Ngoại giao Mỹ sẽ có những đánh giá khách quan, cụ thể, sâu sát và vì lợi ích của các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam để đưa ra những đánh giá, quyết định hữu ích cho quan hệ giữa hai quốc gia, dân tộc.

Nguồn: Võ Khánh Linh Blog

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây