Bảo tàng Hồ Chí Minh vừa phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Sở Văn hóa và Thể thao TP Hồ Chí Minh, Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh ra mắt Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Sự kiện Nguyễn Tất Thành-Hồ Chí Minh đi tìm đường cứu nước: Ý nghĩa lịch sử và giá trị thời đại”.
Đây là hoạt động đánh dấu ý nghĩa đặc biệt của sự kiện kỷ niệm 110 năm Ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đi tìm đường cứu nước (5/6/1911- 5/6/2021).
TS Vũ Mạnh Hà, Giám đốc Bảo tàng Hồ Chí Minh cho biết, thông qua cuốn kỷ yếu, ban tổ chức kỳ vọng sẽ góp phần giúp độc giả có thêm những hiểu biết toàn diện, sâu sắc trong quá trình nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Qua đó, tiếp tục khẳng định ý nghĩa lịch sử và giá trị thời đại của sự kiện ngày 5/6/1911 và hành trình đi tìm đường cứu nước của Người, đồng thời lan tỏa sâu rộng hơn nữa việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đến các thế hệ người Việt Nam ở trong và ngoài nước…
Cuốn Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Sự kiện Nguyễn Tất Thành – Hồ Chí Minh đi tìm đường cứu nước: Ý nghĩa lịch sử và giá trị thời đại” dày gần 1.000 trang, tái hiện một cách chân thực, đầy đủ hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành – Hồ Chí Minh cũng như ý nghĩa của sự kiện đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
Cuốn Kỷ yếu có bốn nội dung chính: Phần một “Từ thành phố này Người đã ra đi”, các tác giả tập trung vào các vấn đề phân tích: Bối cảnh lịch sử trong nước và thế giới thời điểm Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước; những nguyên nhân Nguyễn Tất Thành lựa chọn Sài Gòn là điểm khởi đầu trên hành trình tìm đường cứu nước của mình; dấu ấn của Thương cảng Sài Gòn và vị trí cầu tàu, nơi con tàu Amiral Latouche Tréville đưa Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước… Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 là giai đoạn có nhiều biến động của lịch sử thế giới và Việt Nam. Trên thế giới, chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn độc quyền (chủ nghĩa đế quốc) và ra sức đàn áp, bóc lột nhân dân lao động trong nước, đẩy mạnh xâm lược, áp bức nhân dân các nước thuộc địa. Khi đó ở Việt Nam, phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp nổ ra mạnh mẽ nhưng đều lần lượt thất bại. Sinh ra và lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan, lại chứng kiến những bất công, lầm than, cơ cực mà người dân phải gánh chịu, Nguyễn Tất Thành thấm đẫm nỗi khổ của cảnh nước mất nhà tan.
Từ trong huyết quản truyền thống yêu nước của dân tộc, truyền thống quê hương và gia đình đã từng bước thôi thúc Nguyễn Tất Thành đi ra nước ngoài, đến với các nước phương Tây để tìm đường cứu nước. Quá trình chuẩn bị cho dự định đó đã đưa Nguyễn Tất Thành đến với cảng Sài Gòn. Tại Sài Gòn-TP Hồ Chí Minh, thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành dừng chân không lâu nhưng đây lại là nơi có vai trò quan trọng, tác động trực tiếp đến quyết định ra đi tìm đường cứu nước của Người. Ngày 5/6/1911, với tên gọi Văn Ba, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành rời cảng Sài Gòn, tạm biệt Tổ quốc, khởi đầu hành trình 30 năm bôn ba đi tìm đường cứu nước.
Trong phần hai của Kỷ yếu, các nhà khoa học tập trung vào những vấn đề: Các công việc Nguyễn Tất Thành-Nguyễn Ái Quốc đã làm trong 30 năm tìm đường cứu nước (1911-1941); việc học và sử dụng ngoại ngữ của Nguyễn Tất Thành – Nguyễn Ái Quốc; Nguyễn Tất Thành – Hồ Chí Minh với việc sử dụng báo chí là phương tiện đấu tranh cách mạng; những tác phẩm lớn của Nguyễn Tất Thành – Nguyễn Ái Quốc trong 30 năm hoạt động ở nước ngoài (1911-1941); Nguyễn Tất Thành-Nguyễn Ái Quốc với các tổ chức chính trị trên thế giới trong hành trình tìm đường cứu nước (1911-1941).
Ở phần ba “Người đi tìm hình của nước”, các tác giả tập trung vào các nội dung chính: Những nhận thức của Nguyễn Tất Thành – Hồ Chí Minh về thế giới và kẻ thù của dân tộc (1911-1945); Thời kỳ khảo sát, nghiên cứu các học thuyết trên thế giới và đến với chủ nghĩa Lê-nin của Nguyễn Tất Thành-Nguyễn Ái Quốc (1911-1920); thời kỳ hoạt động với tư cách là một chiến sĩ cộng sản và chuẩn bị các điều kiện cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc (1920-1930); thời kỳ Nguyễn Ái Quốc vượt qua những khó khăn, thử thách và sự kiên định về tư tưởng, quan điểm của Người về cách mạng giải phóng dân tộc (1931-1940) và thời kỳ Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam (1941-1969).
Phần ba là sau mười năm tìm hiểu thế giới, hòa mình vào cuộc sống lao động và chiến đấu của giai cấp vô sản, Nguyễn Tất Thành-Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác-Lê-nin, hướng niềm tin vào Quốc tế Cộng sản và quyết định đưa cách mạng Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô sản. Từ đó, Nguyễn Ái Quốc đấu tranh, bảo vệ và vận dụng sáng tạo đường lối của Lê-nin về vấn đề dân tộc và thuộc địa vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, sáng lập chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam (3/2/1930); Người tổ chức và lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám thành công, sáng lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (2/9/1945), trở thành vị Tổng chỉ huy tài ba và là ngọn cờ kêu gọi, tập hợp sức mạnh toàn dân, lãnh đạo nhân dân Việt Nam giành thắng lợi vẻ vang trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đưa nước Việt Nam bước vào thời kỳ mới, đi lên chủ nghĩa xã hội.
Qua 110 năm, kể từ ngày thành phố Sài Gòn – Gia Định trước đây, đến nay là TP Hồ Chí Minh tiễn chân người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (ngày 5/6/1911) bắt đầu hành trình đi tìm chân lý cho dân tộc đến khi trở về Tổ quốc, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam năm 1941 và sau này trên cương vị Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Người chưa một lần được quay trở lại nơi đây. Hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt bàn tay lên ngực trái với câu nói xúc động nghẹn ngào, thể hiện tình cảm với đồng bào Nam Bộ luôn còn mãi trong trái tim mỗi người dân Việt Nam: “Bác chẳng có gì tặng lại cả, chỉ có cái này: Miền Nam yêu quý luôn ở trong trái tim tôi”.
Phần bốn của của cuốn Kỷ yếu tập trung vào nội dung đất nước được thống nhất, nhân dân Sài Gòn vinh dự và tự hào khi thành phố được mang tên Bác kính yêu – TP Hồ Chí Minh. Tư tưởng, tấm gương đạo đức cao đẹp cùng những cống hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam và quốc tế là di sản quý báu của toàn Đảng, toàn dân ta, là niềm tự hào, nguồn cổ vũ lớn lao đối với các thế hệ người Việt Nam. Chính vì vậy, công tác giữ gìn, phát huy giá trị những di tích và địa điểm di tích, các công trình tưởng niệm về Chủ tịch Hồ Chí Minh tại TP Hồ Chí Minh cũng như trong cả nước và trên thế giới có vai trò vô cùng quan trọng…
Nguồn: Báo Tin tức