Vấn đề lên án Việt Nam không có tự do báo chí là một trong những chủ đề trọng tâm cùa các cơ quan ngoại giao, báo cáo nhân quyền của chính phủ Mỹ, EU, của một số tổ chức nhân danh “bảo vệ nhân quyền quốc tế” như Quan sát nhân quyền – HRW, Tổ chức Phóng viên Không biên giới- RSF, Tổ chức quốc tế Ủy ban Bảo vệ Nhà báo – CPJ …và của những nhóm tay sai người Việt tự nhận “đấu tranh dân chủ cho Việt Nam” như VOICE, BPSOS, Việt tân, Hội Nhà báo độc lập, NXB Tự do… Nhất là hàng năm cứ đến dịp tới Ngày Tự do báo chí thế giới 3/5, các giải thưởng nhân quyền vinh danh những kẻ đội lốt nhà báo, blogger, nhà hoạt động độc lập bị bắt, xử lý vì hoạt động lật đổ chế độ, tuyên truyền chống Việt Nam hoặc lợi dụng các quyền tự do dân chủ, đưa ra các tuyên bố, báo cáo xuyên tạc tình hình tự do báo chí trong nước và đòi trả tự do “vô điều kiện” cho số bị bắt, xử lý nói trên.
Mới gần đây việc công an bắt, xử lý nhóm Phạm Chí Dũng và số cầm đầu HNBĐL, Phạm Đoan Trang, cầm đầu NXB Tự do hay nhóm “Báo sạch” đều trở thành mục tiêu, bằng chứng xuyên tạc Việt Nam không có tự do báo chí. Đây là thủ đoạn, chiêu trò chống phá Việt Nam không hề mới, các thế lực thù địch từ lâu lợi dụng chiêu bài “tự do ngôn luận”, “tự do báo chí” trở thành “vũ khí” chống phá Việt Nam.
Những thủ đoạn, chiêu trò chống phá về vấn đề tự do báo chí, tựu chung như sau:
Thứ nhất xuyên tạc khái niệm tự do báo chí.
Họ tuyên truyền rằng theo lập luận của một số nhà tư tưởng tư sản từng giải thích về tự do báo chí như tự do hàng hóa. Người ta có thể tự do sản xuất các hàng hóa để đưa ra thị trường tiêu thụ thì cũng có thể tự do in ấn, xuất bản các tờ báo để bán cho người đọc. Người dân đã biết chọn cho mình thứ hàng hóa tốt thì cũng có thể chọn cho mình những ý kiến hay, những tư tưởng tốt trong báo chí tự do (Giôn Min-tơn 1608 – 1674, Giôn Xtu-át Min 1806 – 1873). Cách giải thích trên cho thấy, nó mới chỉ nhấn mạnh các quyền tự do làm báo, tự do ra báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí mà quên đi quyền được bảo vệ một cách công bằng, đạo đức trên báo chí, truyền thông, đồng thời lơ đi vai trò của pháp luật trong điều chỉnh hoạt động báo chí phục vụ cho mục đích chung, hài hòa của xã hội và phúc lợi của nhân dân.
Thứ hai, viện dẫn các quy định của luật pháp quốc tế và luật pháp Việt Nam về tự do báo chí, nhưng cố tình lờ đi những quy định và điều khoản nghĩa vụ kèm theo rồi tán phát qua internet, mạng xã hội làm cho nhiều người hiểu lầm rằng “tự do báo chí” là một quyền tuyệt đối, không có bất cứ một hạn chế nào.
Khi bàn về tự do báo chí, một số người thường hay trích dẫn một câu trong Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1789 của nước Pháp rằng, “Tự do trao đổi suy nghĩ và ý kiến là một trong những quyền quý giá nhất của con người. Vì thế, bất kỳ công dân nào cũng có thể nói, viết và công bố tự do”; hoặc viện dẫn Tu chính án thứ nhất của Hiến pháp Mỹ được thông qua năm 1791 rằng, Quốc hội không được làm luật liên quan đến bất cứ tôn giáo nào, hoặc ngăn cản sự tự do tín ngưỡng, hoặc ngăn cản sự tự do ngôn luận, tự do báo chí, hoặc quyền của người dân được hội họp hòa bình, và kiến nghị chính quyền để giải quyết khiếu nại. Đồng thời, người ta cũng coi đó là biểu tượng của nền tự do báo chí ở Mỹ và phương Tây nói chung.
Thực tế pháp lý ở tất cả các quốc gia trên thế giới, vấn đề có tính nguyên tắc là tự do luôn gắn liền với trách nhiệm, quyền lợi luôn gắn liền với nghĩa vụ. Mối quan hệ phổ biến này nhằm mục tiêu chính đáng và khách quan là bảo đảm cho tự do của mỗi người không làm mất đi hay ảnh hưởng tiêu cực đến tự do của người khác và của cộng đồng. Đây cũng chính là nguyên tắc căn bản mà Tuyên ngôn thế giới về quyền con người của Liên hợp quốc đã khẳng định mạnh mẽ. Sau khi xác quyết các quyền tự do và quyền con người nói chung, Điều 29 của Tuyên ngôn này khẳng định: “Khi thực hiện các quyền và tự do của mình, mọi người chỉ chịu những hạn chế do luật định, nhằm mục đích duy nhất là đảm bảo sự công nhận và tôn trọng thích đáng đối với các quyền và tự do của người khác cũng như đáp ứng những yêu cầu chính đáng về đạo đức, trật tự xã hội và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ”. Vì thế, những quyền tự do của mỗi người không thể không bị hạn chế bởi pháp luật nhằm bảo đảm cho tự do của những người khác, bảo đảm lợi ích chung cho cả cộng đồng.
Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1789 của nước Pháp cũng thể hiện về các quyền tự do của con người và công dân Pháp theo nguyên tắc ấy. Điều khoản thứ tư của Tuyên ngôn nêu rõ: “Tự do bao gồm khả năng làm bất cứ điều gì mà không gây hại cho người khác. Như thế, việc thực hiện các quyền tự nhiên của mỗi cá nhân chỉ bị giới hạn sao cho các cá nhân khác trong xã hội cũng được hưởng những quyền tương tự. Những giới hạn này được quy định duy nhất bằng luật pháp”. Liên quan đến tự do báo chí và tự do ngôn luận, Điều 11 trong Tuyên ngôn này cũng xác định: “Tự do trao đổi suy nghĩ và ý kiến là một trong những quyền quý giá nhất của con người. Vì thế, bất kỳ công dân nào cũng có thể nói, viết và công bố tự do; tuy nhiên, họ sẽ chịu trách nhiệm nếu lạm dụng quyền tự do này theo quy định của pháp luật”. Như vậy, tự do báo chí, tự do ngôn luận, bất luận trong trường hợp nào cũng là tự do có hạn định, không thể vượt ra ngoài khuôn khổ của pháp luật.
Trở lại trường hợp của nước Mỹ, tuy không có luật riêng về báo chí nhưng Mỹ lại có nhiều điều luật từ các luật khác của Quốc hội, nhiều quy định có tính pháp lý của tòa án, của các cơ quan liên bang khác và của các bang, trong đó có những quy định, những yêu cầu giới hạn đối với hoạt động báo chí, đối với quyền và trách nhiệm của công dân liên quan đến báo chí. Ví dụ, Ðiều 2.385 Chương 115, phần 18 (Title 18), Bộ luật của Mỹ (U.S.Code) quy định: Nghiêm cấm mọi hành vi in ấn, xuất bản, biên tập, phát thanh, truyền bá, buôn bán, phân phối hoặc trưng bày công khai bất kỳ tài liệu viết hoặc in nào có nội dung vận động, xúi giục hoặc giảng giải về trách nhiệm, sự cần thiết tham vọng, tính đúng đắn của hành vi lật đổ hoặc tiêu diệt bất kỳ chính quyền cấp nào tại Mỹ bằng vũ lực hay bạo lực. Năm 1953, Bộ Luật này đã được bổ sung điều khoản cho phép xét xử việc đăng tải các tài liệu mà chính phủ cho là bí mật. Chưa kể, các tổ chức báo chí ở Mỹ cũng có những quy định riêng, yêu cầu người làm báo và các cơ quan báo chí phải tuân thủ những nguyên tắc cụ thể trong hoạt động báo chí. Quy tắc báo chí Mỹ theo tinh thần “lý thuyết trách nhiệm xã hội của báo chí” xác định 7 yêu cầu hoạt động nghề nghiệp là: 1- Trách nhiệm; 2- Tự do báo chí; 3- Sự độc lập; 4- Lòng thành, sự xác thực, đúng đắn; 5- Sự vô tư; 6- Sự bảo đảm tôn trọng thanh danh; 7- Giữ thuần phong mỹ tục.
Thứ ba, tác động đến Quốc hội Mỹ và các nước phương Tây, các tổ chức quốc tế thông qua các dự luật, nghị quyết, báo cáo thường niên,… với nội dung xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền, tự do báo chí ở Việt Nam, vu cáo Việt Nam “vi phạm tự do ngôn luận, tự do báo chí”; vận động trao giải thưởng nhân quyền cho số bị bắt, xử lý nhằm đánh bóng, tạo thương hiệu, ca ngợi cho số bị bắt, xử lý, biến họ thành “nhân chứng”, “bằng chứng” vu cáo Việt Nam đàn áp tự do báo chí.
Cứ mỗi sự kiện chính trị, quốc tế hay có vụ việc phát sinh nào đó, Việt tân, BPSOS và hàng tá các tổ chức ngoại vi lại mở chiến dịch “quốc tế vận” nhắm vào các truyền thông Việt ngữ lên tiếng, vận động các dân biểu thân thiết, các NGO quốc tế, giải thưởng nhân quyền hay các cáo buộc về tự do báo chí của Việt Nam
Thứ tư, một số phần tử còn tác động vào các chính khách cực đoan trong Quốc hội Mỹ, Anh, Canađa,… tổ chức điều trần, hội thảo, xuyên tạc tình hình tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam nhằm tác động Liên hợp quốc ra nghị quyết bất lợi đối với nước ta. Trên lĩnh vực báo chí, một số đối tượng còn thành lập các câu lạc bộ, các diễn đàn trên mạng dưới chiêu bài “tự do ngôn luận, tự do báo chí” để tập hợp lực lượng, hình thành các tổ chức chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam.
Ở Việt Nam, nhất là từ sau khi cả nước bước vào công cuộc đổi mới, những điều kiện pháp lý bảo đảm cho tự do báo chí đã từng bước được xác lập và ngày càng hoàn thiện. Năm 1989, Quốc hội thông qua Luật Báo chí. Mười năm sau, năm 1999, Quốc hội thông qua Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí năm 1989. Đây là bước hoàn thiện Luật Báo chí cho phù hợp với những yêu cầu thực tiễn của công cuộc đổi mới. Năm 2016, Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung đã được Quốc hội khóa XIII thông qua, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2017. Hiến pháp năm 2013 có riêng một chương (Chương II) quy định về Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, trong đó Điều 25 nêu rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình”; đồng thời cũng nêu: “Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Luật Báo chí năm 2016 cũng quy định tại Chương II về quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí của công dân. Trong đó, Điều 13 quy định: “Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trò của mình”; đồng thời cũng quy định: “Báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ. Không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân”. Đặc biệt khoản 3, Điều 13 quy định: “Báo chí không bị kiểm duyệt trước khi in, truyền dẫn và phát sóng”.
Trong xu thế hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đối với bất kỳ quốc gia nào cũng đều phải giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa đẩy mạnh hội nhập quốc tế với giữ gìn bản sắc dân tộc nói chung và giữ gìn các giá trị truyền thống, các quan điểm truyền thống đối với từng lĩnh vực, từng vấn đề nói riêng. Trong lĩnh vực báo chí, Nhà nước ta vừa phải bảo đảm tự do báo chí, tự do ngôn luận trên cơ sở thông tin trên báo chí phải chính xác, trung thực; vừa phải vì lợi ích quốc gia, dân tộc, cộng đồng, vì mục tiêu phát triển; phải phù hợp với lịch sử văn hóa, phong tục, tập quán, truyền thống dân tộc; phải phù hợp thông lệ quốc tế, các cam kết mà Việt Nam ký kết, tham gia; phải trong khuôn khổ pháp luật.
Chiêu trò đòi tự do báo chí không giới hạn thực chất là cái bẫy mà các thế lực thù địch giăng ra đòi chúng ta cho phép báo chí tư nhân, đồng nghĩa chấp nhận “canh trạnh tự do” trên “thị trường thông tin” là hết sức nguy hiểm. Bài học về sự sụp đổ Liên Xô, Đông Âu trước đây, các cuộc cách mạng đường phố, can thiệp và thao túng thông tin ở các nước Bắc Phi, Trung Đông mới đây cho ta thấy, không có cái gọi là tự do báo chí đích thực nào cả, bản chất là sự thao túng, lũng đoạn của giới tài phiệt, của mưu đồ chính trị của các quốc gia tự khoác cho mình tấm áo giả dối mang danh “tự do báo chí”
Nguồn: Loa phường