Công hàm Thủ tướng Phạm Văn Đồng 1958 không có ý nghĩa công nhận chủ quyền Trung Quốc  ở Trường Sa, Hoàng Sa. (Kỳ 2)

Công hàm Thủ tướng Phạm Văn Đồng 1958 không có ý nghĩa công nhận chủ quyền Trung Quốc ở Trường Sa, Hoàng Sa. (Kỳ 2)

Sau sự việc ngày 17-4-2020, Trung Quốc (TQ) gửi công hàm lên Liên Hợp Quốc để khẳng định chủ quyền với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (thuộc chủ quyền của Việt Nam). Trong đó, TQ khẳng định chính phủ Việt Nam cũng đã công nhận điều này thông qua công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Những kẻ bất mãn, chống phá Đảng, Nhà nước lâu nay được cớ đẩy mạnh xuyên tạc, bịa đặt thông tin liên quan đến Công hàm này, như xuyên tạc Đảng Cộng sản đã “bán nước”, rằng ông Phạm Văn Đồng đã thừa lệnh Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Công hàm bán nước cho Trung Quốc; đòi Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, “cắt hết mọi chức vụ trong đảng và chính quyền của Phạm Văn Đồng để trừ mọi hậu họa do ông ta gây ra cho đất nước”…Lố bịch hơn họ “hiến kế” bảo vệ chủ quyền biển đảo bằng cách là phải “giải thể Đảng Cộng sản Việt Nam, khôi phục lại tư thế pháp nhân của Việt Nam Cộng hòa”!

Công hàm Thủ tướng Phạm Văn Đồng 1958 không có ý nghĩa công nhận chủ quyền Trung Quốc  ở Trường Sa, Hoàng Sa. (Kỳ 2)

Trên thực tế, tìm hiểu bối cảnh lịch sử, giá trị pháp lý của Công hàm này cho thấy, nó không hề có ý nghĩa công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa như Trung Quốc đang cố bấu víu và được những kẻ khoác áo “yêu nước”, “đấu tranh dân chủ” hưởng ứng, “đục nước béo cò”

Kỳ 1: CÔNG HÀM 1958 HOÀN TOÀN MANG TÍNH NGOẠI GIAO

Kỳ 2: VIỆT NAM THỰC THI CHỦ QUYỀN LIÊN TỤC ĐỐI VỚI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA, TRƯỜNG SA VÀ ĐƯỢC THẾ GIỚI CÔNG NHẬN

Ngày 2-9-1945, nước VNDCCH được thành lập, là một nhà nước độc lập, toàn vẹn lãnh thổ và tuyên bố chủ quyền trên toàn lãnh thổ Việt Nam (bao gồm Trường Sa, Hoàng Sa).

Ngày 6-3-1946, Chính phủ VNDCCH ký với Pháp Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt 1946. Theo đó, VNDCCH là một quốc gia tự do trong Liên bang Đông Dương, nằm trong khối Liên hiệp Pháp. Tuy nhiên, sau đó Pháp chủ trương không thực hiện một số thỏa thuận trong Hiệp định sơ bộ và Tạm ước Việt Pháp, trái lại còn cố ý gây chiến để tái xác lập chế độ thực dân trên lãnh thổ Việt Nam. Chiến tranh giữa hai bên xảy ra vào cuối năm 1946 và kéo dài tới giữa năm 1954.

Căn cứ vào Hiệp định sơ bộ, vì VNDCCH nằm trong khối Liên hiệp Pháp, trong thời gian từ cuối năm 1946 tới đầu 1947, Pháp đã thực thi quyền đại diện để bảo vệ chủ quyền của VNDCCH tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Từ cuối năm 1946, Pháp đã chủ trương thành lập một chính phủ khác trên đất Việt Nam để đối trọng VNDCCH. Ngày 5-6-1948, Hiệp ước vịnh Hạ Long được ký kết và ngày 8-3-1949, với sự ký kết Hiệp định Élysée, Quốc gia Việt Nam (QGVN), một quốc gia độc lập thuộc Liên hiệp Pháp, được thành lập. Đến đầu năm 1950 đã có 35 quốc gia công nhận QGVN.

Pháp đã chính thức trao quyền quản lý toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cho QGVN. Tháng 4-1949, hoàng thân Nguyễn Phúc Bửu Lộc, Bộ trưởng Bộ Nội vụ QGVN, tuyên bố khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Tháng 10-1950, việc quản lý Hoàng Sa và Trường Sa được Pháp chính thức bàn giao cho QGVN.

Năm 1949, Pháp đã gửi đơn xin đăng ký các trạm khí tượng do Pháp xây dựng tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Tổ chức Khí tượng Thế giới và đã được chấp nhận. Các trạm khí tượng này là trạm Phú Lâm với số hiệu 48859; trạm Hoàng Sa với số hiệu 48860; trạm Ba Bình với số hiệu 48419.

Năm 1951, QGVN đã được mời tham dự Hội nghị San Francisco về chấm dứt chiến tranh tại châu Á – Thái Bình Dương và lập quan hệ với Nhật Bản thời hậu chiến. Hội nghị có 51 nước tham gia. Tại hội nghị, đại diện Liên Xô là ông Andrei Gromyko đã đề nghị trao hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho TQ. Đề nghị này đã bị hội nghị bác bỏ với 46 phiếu chống, ba phiếu thuận.

Tại hội nghị, Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao QGVN Trần Văn Hữu tuyên bố: “Việt Nam rất là hứng khởi ký nhận trước nhất cho công cuộc tạo dựng hòa bình này. Và cũng vì vậy cần phải thành thật lợi dụng tất cả cơ hội để dập tắt những mầm mống các tranh chấp sau này, chúng tôi xác nhận chủ quyền đã có từ lâu đời của chúng tôi trên quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa”.

Tuyên bố này của Thủ tướng Trần Văn Hữu không bị quốc gia nào phản đối hay bảo lưu. Như vậy, Hội nghị San Francisco coi như đã chính thức công nhận việc QGVN khẳng định chủ quyền trên hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa cũng như thu hồi hai quần đảo này từ Nhật Bản.

Trong khi đó, phía TQ giai đoạn đó không hề lên tiếng phản đối tuyên bố của QGVN

Trong hòa ước giữa Trung Hoa Dân Quốc (THDQ) và Nhật Bản ngày 28-4-1952, THDQ ghi nhận việc Nhật Bản từ bỏ mọi quyền đối với hai quần đảo như nội dung đã được ghi trong văn kiện Hội nghị San Francisco nhưng không yêu cầu Nhật Bản giao lại hai quần đảo này. Việc này là bằng chứng góp phần cho thấy phía TQ đã gián tiếp thừa nhận tuyên bố chủ quyền của QGVN đối với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa tại Hội nghị San Francisco.

Như vậy, trong thời gian từ năm 1945 tới 1954, trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam có hai chính phủ của Việt Nam và hai chính phủ này đều có chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. VNDCCH là một thành viên thuộc khối Liên hiệp Pháp, được Pháp đại diện để thực thi chủ quyền; QGVN cũng là một thành viên thuộc khối Liên hiệp Pháp, được Pháp chuyển giao chủ quyền và đã khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo.

Tuyên bố của QGVN tại Hội nghị San Francisco không có nước nào phản đối và bảo lưu. Đó là bằng chứng cho thấy Việt Nam đã khẳng định chủ quyền rõ ràng và minh bạch và đã tiếp nhận hai quần đảo này từ Nhật Bản.

Từ giai đoạn 1954-1975 và cả giai đoạn sau đó, Việt Nam tiếp tục thực thi chủ quyền một cách liên tục

Ngày 21-7-1954, Hiệp định Geneva được ký. Theo Hiệp định Geneva, lãnh thổ Việt Nam tạm chia thành hai vùng: Miền Bắc do Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) kiểm soát, miền Nam do Liên hiệp Pháp và các lực lượng thân Pháp, trong đó có Quốc gia Việt Nam (QGVN), kiểm soát. Ranh giới tạm thời là vĩ tuyến 17.

Năm 1955, Thủ tướng Ngô Đình Diệm phế truất Quốc trưởng Bảo Đại và lên làm quốc trưởng của QGVN. Sau đó, QGVN đổi tên thành Việt Nam Cộng hòa (VNCH) do Ngô Đình Diệm làm tổng thống. Năm 1956, quân đội VNCH đã trú đóng ở phần phía tây quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Như vậy, vào năm 1958, chính VNCH (chứ không phải VNDCCH) là thực thể chính trị duy nhất thực sự thực thi chủ quyền với hai quần đảo Trường Sa

Vậy nên, dù công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không thể hiện sự phản đối trực tiếp tuyên bố chủ quyền của TQ đối với hai quần đảo (vì VNDCCH không phải là thực thể chính trị thực thi chủ quyền tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa) nhưng sự không phản đối đó không tạo ra bất cứ cơ sở pháp lý nào để nói rằng Việt Nam đã mặc nhiên công nhận chủ quyền của TQ.

Bàn về tính chính danh của VNCH trong việc thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, theo Công ước Montevideo 1933 về quyền và nghĩa vụ của các quốc gia, “một quốc gia là một chủ thể của luật quốc tế, đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn về: có dân cư ổn định, có lãnh thổ xác định, có chính phủ và có khả năng tham gia vào các quan hệ quốc tế” và “sự tồn tại về chính trị của các quốc gia độc lập với sự công nhận của các quốc gia khác”. Giai đoạn 1954-1975, chiếu theo Công ước Montevideo 1933, trên lãnh thổ Việt Nam tồn tại hai thực thể chính trị với tư cách quốc gia: VNDCCH và VNCH. Vấn đề quan trọng nằm ở chỗ: Dù các nước có tuyên bố công nhận hay không công nhận tư cách quốc gia của VNDCCH hay VNCH thì điều đó cũng không làm ảnh hưởng tư cách quốc gia của họ. Như vậy, theo luật pháp quốc tế, VNCH hoàn toàn có tư cách quốc gia để thực thi chủ quyền với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, còn VNDCCH thì trong thời gian đó không có thẩm quyền với hai quần đảo này.

Như vậy, VNDCCH không nhất thiết phải tuyên bố phản đối tuyên bố chủ quyền của TQ năm 1958 và sự im lặng của VNDCCH trong thời gian này không làm yếu đi danh nghĩa chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo.

Từ năm 1975 đã có sự thay đổi về chính quyền trên lãnh thổ Việt Nam. Theo Công ước Montevideo 1933 quy định sự thay đổi chính quyền không làm thay đổi quốc gia. Theo quy định của tập quán quốc tế, đặc biệt là Hiến chương Liên Hợp Quốc (LHQ), việc lựa chọn một chính quyền để đại diện cho toàn thể nhân dân trên một quốc gia hoặc vùng lãnh thổ nào đó là quyền tự quyết của nhân dân sống trong quốc gia và vùng lãnh thổ đó. Khi trên một lãnh thổ quốc gia có một chính quyền bị thay thế bởi một chính quyền khác, chính quyền mới sẽ kế thừa các di sản của chính quyền trước đó, kể cả lãnh thổ, các hiệp ước, tư cách thành viên trong các tổ chức quốc tế, các khoản nợ…Cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam từ sau khi ra đời Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam vào năm 1960 và kết thúc bằng chiến thắng ngày 30-4-1975 và thành lập Cộng hòa miền Nam Việt Nam (CHMNVN) thực chất là việc thực hiện quyền tự quyết của nhân dân miền Nam trong việc lựa chọn chế độ chính trị theo đúng các quy định của luật pháp quốc tế. Sau 30-4-1975, CHMNVN đã thay thế VNCH và trở thành thể chế chính trị duy nhất đại diện cho nhân dân miền Nam. Vì vậy, CHMNVN có quyền và trong thực tế đã kế thừa một cách hợp pháp chủ quyền của VNCH đối với hai quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa. Chính TQ cũng là một trong những quốc gia đầu tiên công nhận CHMNVN là đại diện duy nhất của nhân dân miền Nam Việt Nam. Do vậy, TQ cũng đã gián tiếp công nhận rằng theo luật pháp quốc tế, sau khi tiếp nhận sự đầu hàng của VNCH, CHMNVN đã chính thức kế thừa chủ quyền đối với hai quần đảo nói trên.

Năm 1976 đã diễn ra cuộc tổng tuyển cử, thống nhất đất nước Việt Nam. Toàn lãnh thổ Việt Nam chỉ còn một quốc gia với chính quyền duy nhất là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đó cũng là dấu mốc Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam kế thừa chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ CHMNVN (chứ không phải từ VNDCCH, vì thực thể chính trị này không có thẩm quyền và không được giao quản lý hai quần đảo.)

Như vậy, việc kế thừa chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được thực hiện theo đúng luật pháp quốc tế. Điều đó một lần nữa khẳng định rằng CHPVĐ 1958 không có giá trị pháp lý và không ảnh hưởng tới chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

(còn nữa)

Nguồn: Loa phường

Comments

No comments yet. Why don’t you start the discussion?

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *