Tượng tên giáo sĩ phản động Alexandre de Rhodes nặng 43 tấn bị Hà Nội từ chối từ năm 2009, giờ ở xó xỉnh nào?
Thưa các bạn, Sở Văn hóa- Thông tin- Du lịch TP Đà Nẵng cùng Hội khoa học lịch sử tp này đang ấp ủ mưu đồ VINH DANH TÊN TỘI ĐỒ DÂN TỘC -GIÁO SĨ ALEXANDRE DE RHODES thông qua việc đặt tên một đường phố mới ở quân Hải Châu mang tên Alexandre de Rhodes (15 tháng 3 năm 1591 – 5 tháng 11 năm 1660).
Alexandre de Rhodes là ai?
Hẳn mọi người còn nhớ, dịp kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội (2009), “nhà lật sử” Dương Trung Quốc- Tổng thư ký Hội khoa học lật sử VN và đồng bọn đã mở chiến dịch vận động rầm rộ để dựng tượng Alexandre de Rhodes tại Thủ đô Hà Nội. Song Thành phố Hà Nội đã không chấp nhận, mưu đồ của nhà lật sử này đã thất bại thảm hại, bức tượng Alexandre de Rhodes nặng 43 tấn đến nay vẫn vứt ở xó xỉnh nào đó.
Thế mà giờ đây, tay chân của “nhà lật sử” Dương Trung Quốc ở TP Đà Nẵng lại đang ấp ủ âm mưu “thua keo này, bày keo khác” bằng cách đặt tên tên phản động Alexandre de Rhodes cho một con đường ở phố biển Đà Nẵng.
*** Xin quí vị giúp chúng tôi vài bước nhấp chuột như sau. Họ sẽ đóng mục Góp Ý vào cuối tháng này. Chỉ còn ít tuần mà thôi. Nhanh lên các bạn*** Bạn nào làm xong cho biết để càng… quí hơn.
2- Chọn hàng số 2: Đề án về việc đặt, đổi tên một số đường và công trình công cộng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng- Và bấm ***Gửi góp ý
3- Can đảm ghi tên họ, và địa chỉ. Và góp ý.
Để biết rõ hơn về tên giáo sĩ phản động Alexandre de Rhodes, Google.tienlang xin chép về bài từ trang web của Cụ Lý
***********
Cái ơn con … tự (2)
(Vài chuyện về chữ quốc ngữ)
Chuyện dựng bia đúc tượng cụ cố Rốt
Nhớ lại hồi tháng 6-2009, báo Tuổi Trẻ đăng tin, nhân kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội, nhà điêu khắc Phạm Văn Hạng có gửi chính quyền Thành phố Hà Nội và Hội Khoa học lịch sử mà ông Dương Trung Quốc là Tổng thư ký một bức thư, gợi ý tặng tác phẩm điêu khắc cố đạo Alexandre de Rhodes do ông Hạng thực hiện, để đặt tại thủ đô Hà Nội.
Trong thư, ông Hạng cũng cho biết ý tưởng về việc “dựng tượng đài tri ân ông cố đạo này ngay tại thủ đô của nước Việt Nam được chính cố thủ tướng Võ Văn Kiệt trăn trở nhiều năm sau khi ông rời chính trường nghỉ hưu, và chính ông khởi xướng, đôn đốc thực hiện”.
Một bài báo khác cho biết thêm, ban đầu, ông Kiệt mời nghệ sĩ Hạng và ông Dương Trung Quốc đến nhà ở TP.HCM để “tham vấn”, rồi sau đó ông “đặt hàng” ông Hạng, để có một bức tượng Alexandre de Rhodes, trước hết cho chính ông, với tư cách cá nhân, bày tỏ lòng tri ân người có đóng góp nào đó cho dân tộc mình. Nhưng sau này, ông Kiệt bảo với nhà điêu khắc và ông Quốc: “Đợi khi nào thuận lợi, cố tìm cách để tượng đấy được đặt ở Thủ đô Hà Nội, chúng ta biểu thị một sự hàm ơn, và vinh danh người có công, tỏ rõ sự quí trọng văn hoá, khoa học…”.
Để làm bằng, bài báo còn cung cấp bức ảnh này – trong đó ông Phạm Văn Hạng là người ngoài cùng bên phải
Và với ông Dương Trung Quốc, thì còn lúc nào thuận lợi để đặt tượng cụ cố Rốt hơn là lúc cả nước sôi nổi kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội?
Ông Alexandre de Rhodes là ai và có công gì? Hỏi bằng thừa, vì đã có quá nhiều cuộc hội thảo rồi và vấn đề xem ra cũng đã rõ. Alexandre de Rhodes là một ông cố đạo người Âu sang bên ta vào thời kỳ nửa đầu thế kỷ XVII, là thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Ông có “công đầu” trong việc truyền cái đạo Ki Tô vào nước ta và vì thế, lại có hai cái công “phái sinh”, tức là việc “chẳng đặng đừng” để có thể thực thi cái “công đầu”. Đó là: (a) ông “đưa” người Pháp vào “khai hóa” dân ta và (b): “phát minh” ra cách ghi các tiếng nói của người Việt bằng các ký tự Latin, là cái chữ mà nay ta đang dùng, tức là chữ “quốc ngữ”. Người Việt đọc tên ông Đờ Rốt (de Rhodes) thành ra cụ cố Rốt hoặc gọi là ông Đắc Lộ.
Cái “công” của cố Rốt với dân ta có hay không và nó to hay nhỏ, chúng ta sẽ bàn kỹ hơn ở entry sau, nhưng nếu đã được bác Tổng thư ký hội Khoa (học lệch) sử hăm he dựng tượng đúng vào dịp Đại lễ 1000 năm Thăng Long thì cái công ấy hẳn phải được bác Tổng oánh giá cao kém gì công lao cụ Lý Thái Tổ.
Được lời như cởi tấm lòng, ông Hạng quyết mần tượng cụ cố thật to, cái tượng đầu tiên nặng 20 tấn, chưa đã, nên cái sau ông tăng gấp đôi, thành ra nặng đến 43 tấn. Tượng sau được tạc từ nguyên khối đá hoa cương mang về từ Bà Rịa, cao 3m, rộng 2m, được ông hoàn thành vào mùa thu năm 2008. Bản thu nhỏ (phiên bản) cao 90cm của bức tượng này cũng đã được ông Hạng đem tặng Thư viện quốc gia và đã được Thư viện trưng bày tại số 31 – Tràng Thi, Hà Nội trong một thời gian dài để lấy ý kiến dân chúng.
Tượng Alexandre de Rhodes, nặng 20 tấn
Khách quan mà nói, những người đòi phải “tri ân cụ cố” như ông Kiệt và “tham miu” cho ông Kiệt là bác thày dùi lệch sử kia cũng có cái lý của họ, là vì ngày trước, thời Tây, ở Hà Nội, các ông Tây cũng đã từng “cho phép” các ông ta “tri ân” cụ cố rồi.
Mãi cho đến cuối tháng 5-1941, tại Hà Nội, dưới sự bảo trợ của chính quyền thực dân, cố đạo Tây là Tổng Giám mục địa phận Hà Nội, ông François Chaize và Hội Truyền bá quốc ngữ (do cụ Nguyễn Văn Tố, người bất đắc dĩ phải đứng ra – như hồi ký Nguyễn Hữu Đang ghi lại, xem thêm bài của BS Nguyễn Văn Thịnh) cùng tổ chức Lễ khánh thành bia và nhà bia tưởng niệm cụ cố Rốt.
===
Trích hồi ký của nhà hoạt động văn hóa-xã hội Nguyễn Hữu Đang:
“Trước Cách mạng Tháng Tám, ở sau đền Bà Kiệu, xế cửa đền Ngọc Sơn, vẫn có một khoảng đất rộng độ ba trăm mét vuông, ở giữa dựng tấm bia đá ghi công tích Alexandre de Rhodes, một giáo sỹ Pháp sang truyền đạo ở nước ta vào những năm 1624-1645, được một dư luận mơ hồ coi là người đã sáng tạo ra chữ Quốc ngữ. Dư luận ấy càng hay được nhắc lại trong giáo hội và giáo dân như một niềm tự hào song song với niềm tự hào Giáo hoàng Grégoire đã đặt ra dương lịch!
Lợi dụng cái nhầm lẫn của những người không hiểu biết về một sự kiện lịch sử, thực dân Pháp dựng đài kỷ niệm ông ta với dụng ý gây uy tín cho chủ nghĩa đế quốc Pháp, chứng minh cụ thể “công ơn” của nước Đại Pháp đã “khai hóa” dân tộc Việt Nam lạc hậu! Dĩ nhiên trong lễ khánh thành bia tưởng niệm phải có kẻ tung người hứng. Kẻ tung có nhiệt tình đã được chọn là giám mục địa phận Hà Nội. Kẻ hứng có thẩm quyền nhất phải là ông Nguyễn Văn Tố, nhà cổ học nổi tiếng, Hội trưởng Hội truyền bá Quốc ngữ đang được cả nước hoan nghênh. Bởi vậy Ban tổ chức mời Hội dự lễ khánh thành với yêu cầu nội dung gồm hai tiết mục:
1. Ông Nguyễn Văn Tố đọc một bài phát biểu chứng nhận giá trị khoa học và ý nghĩa lịch sử sự nghiệp của Alexandre de Rhodes, cả hai mặt đều đã được thổi phồng trong bài diễn văn đọc trước.
2. Học viên của Hội ở thủ đô, tiêu biểu cho phong trào truyền bá chữ Quốc ngữ sẽ đến đông đủ, hoan hô và diễu hành.
Hội không có lý do gì chính đáng để từ chối. Ban trị sự và anh chị em trong các ban chuyên môn đều lo ngại Hội sẽ bị lợi dụng trắng trợn. Riêng ông Hội trưởng cứ ung dung nhận lời sau khi đã trấn an mọi người bằng một câu nói vui: “Các ngài cứ yên tâm, Hội trưởng ra ngoài không đến nỗi kém cỏi, khờ dại lắm đâu, sẽ biết múa võ không hở sườn. Xin hứa giữ toàn vẹn cả danh dự Hội lẫn danh dự cá nhân”.
Giữ ra sao? Ông dặn Ban dạy học chỉ dẫn độ năm sáu chục học viên nhỏ tuổi, đứng im lặng, hễ ông đọc xong bài phát biểu là tự động giải tán ra về. Một giáo viên sẽ đến phân trần với Ban tổ chức là học viên người lớn của Hội ban ngày bận đi làm, chỉ có một số ít học viên nhỏ này rỗi phần nào là đi dự được. Họ đứng lâu sốt ruột lại thiếu ý thức trật tự, khuôn phép nên tự động bỏ về, chúng tôi bực mình nhưng cũng đỡ lo vì nếu họ diễu hành, đi gần đài bia tưởng niệm và các quan khách mà có cử chỉ, ngôn ngữ thiếu lễ độ, tôn kính thì tai hại.
Còn bài phát biểu của ông Hội trưởng thì bằng những dẫn chứng cụ thể và biện luận chặt chẽ, ông chỉ ra rằng chính các giáo sỹ Tây-ban-nha (Spaint) và Bồ-đào-nha (Portugal) đã đến xứ này từ lâu trước Alexandre de Rhodes và họ mới là người đầu tiên dùng chữ cái Latin phiên âm tiếng Việt, sáng tạo hệ thống gần hoàn chỉnh chữ Quốc ngữ hiện ta đang dùng. Sau đó, Alexandre de Rhodes mới góp phần mình bằng những cố gắng qui tắc hóa và đem phổ biến hạn chế trong việc dịch kinh bổn và biên soạn tài liệu cho giáo hội. Ông ta đáng khen ở chỗ thừa kế các bậc tiền bối mà có bổ sung trong chi tiết. Những người nghe ông nói hoặc đọc bài phát biểu đăng trên một tờ báo Pháp ra ngày hôm sau đều thấy rõ ông đã vạch trần âm mưu xuyên tạc lịch sử để tuyên truyền lừa bịp của bọn thực dân”.
Ai cũng biết vào nửa đầu thế kỷ XX, trong giới văn nhân văn hóa nước nhà nổi danh tứ kiệt “Quỳnh-Vĩnh-Tố-Tốn”, trong đó vị Viện trưởng Viễn đông bác cổ – học giả Nguyễn Văn Tố là người cốt cách, tự tin, mềm dẻo, uyên bác mà khiêm tốn, khí tiết vững vàng và sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, ông được bầu làm Trưởng Ban thường trực Quốc hội khóa đầu tiên của chính thể Cộng-Hòa Dân-Chủ Việt Nam.
Lễ khánh thành nhà bia, 29- 5-1941, các học trò “nhí” của cụ Tố được “mật lệnh”http://googletienlang2014.blogspot.com/”hễ cụ phát biểu xong thì tự động giải tán”.
Nhà bia do kiến trúc sư Tây Joseph Lagisquet vẽ kiểu, được dựng ngay tại vị trí đền Bà Kiệu bên Hồ Gươm. Nhà xây theo kiểu phương đình, có bốn mái ngói cong theo mô-tip kiến trúc đình chùa Đông phương, trên nền xi măng gấp khúc 12 cạnh, có 3 lối lên gồm 5 bậc. Bên trong nhà bia có đặt một tấm bia đá cao 1,70m, rộng 1,10m, dày 0,20m, trên đế bia cao 0,50m. Mặt bia ghi tóm lược “công tích” truyền đạo và chế tác chữ Việt của cụ cố, được khắc bằng ba thứ ngôn ngữ: chữ Ta, chữ Hán và chữ Pháp.
Bia thời đó, do ông Tây bà đầm ghi: “Người soạn ra nhiều truyện ký đều diễn dịch ra mấy thứ tiếng, và người soạn ra quyển sách Bổn và quyển tự vị tiếng Việt Nam, tiếng Bồ Đào Nha, tiếng La tinh là những sách bằng tiếng Việt Nam dịch âm theo chữ La tinh xuất bản trước tiên, nên tên người cũng được lưu truyền với cái công nghiệp phát minh ra chữ Quốc Ngữ.”
Và: “Khi phải dời bỏ xứ Việt Nam, Người lấy làm tiếc nên có nói rằng: Phần xác ta dời bỏ đất Nam với đất Bắc, nhưng thực ra lòng ta vẫn quyến luyến, nói cho đúng, vẫn bàn hoàn với cả hai nơi và ta chắc rằng không bao giờ lòng ta lại quên được hai xứ ấy.”
(Đọc xong mới biết văn bia của Tây thời trước thật thua xa so với văn tế của bà Hà Nội Mới thời nay, hức, hức, hức… ghi rằng:
“Ông đi khỏi xứ sở nắng vàng, lòng thảnh thơi. Không thù hận. Không oán hờn. Vẫn yêu thương con người, đắm say cái thứ tiếng Việt líu ríu như chim hót trong rừng những đêm đen. Năm năm sau, tại thành Rôme, A. Lecxandre De Rhodes xuất bản cuồn Từ điển Annam- Lusitan- Latin, chính thức tạo thành chữ Quốc Ngữ cho dân tộc Việt. Ôi! A. Lecxandre De Rhoder! Linh hồn ông trong sáng như ánh sao đêm trên bầu trời xa. Ông đã đến đây, truyền Tinh hoa nhân loại cho những con người chân trần bám chặt vào nền đất nâu bạc màu năm tháng. Hồn ông thăng hoa thành chữ gửi lại xứ này. Trái tim ông ở mãi với đất, trời Việt Nam, cùng chữ Quốc Ngữ”.)
Nhà bia thời Tây ghi công đức cụ cố Rốt ở Bờ Hồ (ảnh của cụ Võ An Ninh)
Có điều hay, là ở Hà Nội, ngay ở thời thuộc Pháp, thằng Tây nó bảo sao nghe vậy, mà người ta (gồm cả người Tây) cũng chỉ “tỏ lòng” với cụ cố bằng cách “thỉnh” một tấm bia khiêm tốn như đã nói ở trên, chứ đâu có cần phải “nặng ký” đến những 43 tấn, như tấm lòng của vài ba ông bà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa thời nay thành kính dâng lên cụ cố?
Nhà bia và bia còn tồn tại mãi đến sau năm 1957 bia mới bị tháo đi, cái nhà trống bốn mặt sau trở thành quầy bán hoa tươi của các cô Thương nghiệp Hà Nội. Sau không hiểu vì sao mà tấm bia ấy lại lưu lạc đến tay một ông cựu nhân viên bảo tàng tên Nguyễn Việt Minh và ông này báo tin cho bác Dương Tàu thông qua một người bạn chung, là một họa sỹ. Một bài báo viết rằng bác chuyên gia (lệch) sử Dương Tàu có “nhã ý” đưa ba triệu đồng đổi lấy bia nhưng ông Minh không đồng ý. Sau, Bộ Văn hóa – Thông tin cử người xuống mang bia về lưu giữ tại tầng hầm Ban Quản lý di tích và danh thắng Hà Nội, số 90, phố Thợ Nhuộm, và hình như nay người ta đã đặt lại trong khuôn viên Thư viện quốc gia trên phố Tràng Thi.
Cái nhà thì còn mãi đến năm 1984, ở chỗ hơi chênh chếch với cửa đền Ngọc Sơn, nơi có 2 cây gạo cổ thụ và người ta vẫn nhớ năm xưa có ông già mù bán sáo trúc quanh chỗ ấy, tên là cụ Lê, thổi sáo tuyệt hay. Năm 1984, nhà bia “thờ” ông Tây cố đạo được thay bằng cụm tượng các chiến sĩ Quyết tử Thủ đô mà tác giả là nhà điêu khắc Phạm Kim Giao. Cụm tượng đài đặt ở đây không được “đẹp” lắm vì thiếu không gian và 3 nhân vật thì lại nhìn ra ba hướng. Tuy vậy, ai cũng muốn đây là nơi tưởng niệm các chiến sĩ Thủ Đô 1946 hơn là thờ một ông Tây cố đạo mà bấy giờ còn… rất mờ ám về “công tích”.
Nhà bia ghi “công” cố Rốt được thay bằng tượng đài Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh.
Trở lại bức tượng cụ cố nặng 43 tấn do ông Hạng tạo tác và được “tham miu” bởi bác Dương, Tổng thư ký Khoa học (lệch) sử. Điều oái oăm thú vị là dù có ngắm tới ngắm lui hay căng óc ra mà tưởng tượng, chúng ta cũng sẽ chẳng tìm đâu ra vẻ thánh thiện của một nhà truyền đạo hay nét uyên bác thâm trầm của một học giả, điều tưởng chừng như không thể thiếu nơi cụ cố Rốt, người có “công tích” (“phát minh” ra chữ “quốc ngữ”?) được các vị “cân đong” ngang tầm cụ Lý Thái Tổ dời đô. Ngược lại là khác, toàn bộ gương mặt, ánh mắt, cho đến bộ râu của cụ cố toàn toát ra vẻ hiểm độc và hung hãn. Vì vậy, để khỏi “bí” khi phải trả lời câu hỏi (rất dễ bị những người “ít học” đặt ra) khi ngó thấy bức tượng, là: “Cái ông (ác nhơn) này là ông nào mà được đúc tượng vậy cà?”, nhà điêu khắc đành vớt vát xử lý kiểu “giải pháp tình thế” một cách khá thô thiển. Tức là bằng cách khắc chìm trên chiếc mũ cố đạo của ngài những nguyên âm và phụ âm: a, b, c, d …. x, y, z.
(Gớm mệt, nói dài mỏi tay quá, xin phép được diễn đạt gọn theo ngôn từ của giới họa sĩ là: “Không khắc vậy thì có chó nó biết đây là chân dung cụ Cố Rốt” (*)).
Đây 43 tấn tượng cụ Cố, hãy xem kỹ, có thể làm con nít vãi đái chứ chả chơi.
Có lẽ vì gặp quá nhiều phản ứng, bức tượng 43 tấn của cụ Cố Rốt cho đến nay đã 20 năm mà vẫn còn đang lưu lạc đâu đó nơi ngoại ô thị xã Thủ Dầu Một, Bình Dương.
Kể ra cũng thấy tồi tội, khi cứ để tượng cụ nắng dãi mưa dầu, lăn lóc cùng phân gio nơi luống khoai vườn sắn. Thôi thì tượng chẳng được đặt ở Thủ đô thì bác Dương Tàu lệch sử cũng nên dọn cái chỗ hay ho nào đó mà đặt. Không tìm ra chỗ thì các bác chịu khó “thỉnh” cụ về cơ quan hay nhà riêng mà hương hoa. Đành rằng bức tượng đã không gây được cái hiệu quả “tri ân” thì cũng nên liệu cách phát huy tối đa cái tiềm năng thế mạnh là nhát trẻ con của cụ Cố. Cho nó khỏi phí ạ.
(*) Nói ngoa, nói ngoài lề, nói cho sướng miệng. Chứ còn ông Phạm Văn Hạng vẫn là nhà điêu khắc hàng đầu trong giới mỹ thuật. Đặc biệt là với thể loại tượng đài. Nhưng cái tượng này nhìn dữ thật.
Hoàng Ngân Thương chép từ Cụ Lý
Nguồn: Google Tiên Lãng