Trang chủ Luận bàn - Phản biện Diễn biến tại Bãi Tư Chính và lô 06-01 qua góc nhìn...

Diễn biến tại Bãi Tư Chính và lô 06-01 qua góc nhìn Luật quốc tế

204
0

Hôm 19/7, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng đã cho công luận biết rằng nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc đã vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía nam Biển Đông.

Diễn biến tại Bãi Tư Chính và lô 06-01 qua góc nhìn Luật quốc tế
Tàu hải cảnh Trung Quốc trong vụ giàn khoan HD-981 hồi năm 2014

“Đây là vùng biển hoàn toàn của Việt Nam, được xác định theo đúng các quy định của Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 mà Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên,” bà Thu Hằng phát biểu, theo truyền thông Việt Nam.

Bà Thu Hằng cho biết Việt Nam đã tiếp xúc nhiều lần với phía Trung Quốc ở các kênh khác nhau, trao công hàm phản đối, kiên quyết yêu cầu chấm dứt ngay các hành vi vi phạm, rút toàn bộ tàu ra khỏi vùng biển Việt Nam; tôn trọng quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam vì quan hệ hai nước và ổn định, hòa bình ở khu vực.

Cũng qua tuyên bố của người phát ngôn Việt Nam, chúng ta được xác nhận rằng các lực lượng chức năng trên biển của Việt Nam tiếp tục triển khai nhiều biện pháp phù hợp thực thi chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán một cách hòa bình, đúng pháp luật nhằm bảo vệ vùng biển Việt Nam.

Diễn biến sự việc

Theo thông tin được đăng tải trên Twitter của Ryan Martison (thuộc Đại học Quân sự Hải quân Hoa Kỳ – US Naval War College), South China Morning Post và Asia Maritime Transparency Initiative (AMTI), hiện giờ trên Biển Đông đang có hai diễn biết mới nhất và đáng chú ý nhất liên quan đến hoạt động của các tàu Trung Quốc và phản ứng của Việt Nam.

Thứ nhất, từ ngày 3/7 đến 17/7/2019 tàu thăm dò địa chất Hải Dương 8 thuộc quyền quản lý và sử dụng của chính phủ Trung Quốc đã đi vào vùng biển gần với khu vực Bãi Tư Chính – Vũng Mây. Đi theo bảo vệ tàu này còn có ba tàu hải giám của Trung Quốc được vệ tinh phát hiện, đặc biệt là tàu hải giám trên 10.000 tấn ký hiệu 3901 và tàu dân quân biển Qiong Sansah Yu0014. Trong lúc đó, cũng có sự xuất hiện của các tàu cảnh sát biển mang cờ Việt Nam ở khu vực này, thực hiện các hoạt động cần thiết để bảo vệ vùng đặc quyền kinh tế của mình.

Thứ hai, Ryan Martinson cũng phát hiện ra từ ngày 18/6 đến nay tàu cảnh sát biển được trang bị vũ khí hạng nặng ký hiệu 35111 của Trung Quốc neo đậu cách Bãi Tư Chính 40 dặm về phía tây (hôm 12/7 tàu này có di chuyển đến Bãi Chữ Thập và đã quay trở lại khu vực Bãi Tư Chính). Tàu này tuy không trực tiếp tham gia vào việc đi theo bảo vệ tàu Hải Dương 8 nhưng thay vào đó nó thực hiện các hành vi rất khiêu khích xung quanh dàn khoan Hakuryu-5, ở lô 06-01 thuộc Dự án Nam Côn Sơn, liên doanh của Việt Nam với Nga.

Các thông tin này sau đó đã được người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam khẳng định hôm 19/7. Như vậy, trên Biển Đông hiện giờ đang tồn tại tình trạng bất ổn.

Diễn biến tại Bãi Tư Chính và lô 06-01 qua góc nhìn Luật quốc tế
Sự hiện diện của tàu khảo sát của Trung Quốc trên lãnh thổ Biển Đông dẫn đến cuộc đối đầu

Vùng biển tranh chấp?

Tàu Hải Dương 8 cùng với các tàu bảo vệ của nó, và tàu hải cảnh Trung Quốc Haijing 35111 đã có các hoạt động trong khu vực Tư Chính – Vũng Mây, gần với lô 06-01 của Việt Nam. Đây không phải là vùng biển tranh chấp. Đây là vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

Vùng biển tranh chấp, hiểu theo nghĩa thông thường của Luật quốc tế, có nghĩa là các quốc gia có biển gần kề hoặc đối diện nhau có yêu sách vùng biển của mình chồng lấn lên nhau, đặc biệt là chồng lấn về vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa. Vị trí xảy ra các vụ việc hiện tại cách bờ biển Việt Nam khoảng 200 hải lý. Và theo Công ước Luật Biển 1982 các quốc gia ven biển có quyền yêu sách vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý tính từ đường cơ sở (đường cơ sở xa hơn đường bờ biển về phía hướng ra biển). Do đó, có thể khẳng định, vị trí này là nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

Vị trí này không thể là vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa mở rộng của Trung Quốc chồng lấn lên của Việt Nam. Theo phán quyết của Toà Trọng tài, phụ lục VII của vụ kiện giữa Philippines và Trung Quốc, Toà khẳng định Trung Quốc không có quyền lịch sử tại Biển Đông và, quan trọng nhất, các thực thể tại quần đảo Trường Sa không thể có các vùng biển rộng hơn 12 hải lý xung quanh nó, hay thậm chí không có việc cả quần đảo Trường Sa tạo ra một vùng biển rộng lớn xunh quanh nó. Do đó, nếu Trung Quốc cho rằng khu vực này nằm trong vùng thuộc quyền chủ quyền hoặc quyền tài phán của Trung Quốc từ các thực thể tại Trường Sa, thì đây là một lập luận hoàn toàn không có cơ sở trong Luật quốc tế.

Như vậy, đây không phải là vùng biển tranh chấp. Đây là một vụ việc mâu thuẫn thực tế giữa các hoạt động của các tàu (hay các quốc gia) trong vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

Quy định của Luật biển quốc tế về vùng đặc quyền kinh tế

Bởi vì các sự việc này đều xảy ra tại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, cho nên cần phải soi chiếu tính chất pháp lý của các hành động trên của cả hai nước, Trung Quốc và Việt Nam, qua chế định về vùng đặc quyền kinh tế của luật pháp quốc tế; trong đó, cơ sở pháp lý quan trọng nhất là Công ước Luật Biển 1982 (UNCLOS) mà cả Trung Quốc và Việt Nam đều là thành viên.

Vùng đặc quyền kinh tế là một vùng biển chỉ xuất hiện từ khi UNCLOS ra đời, và các quốc gia ven biển phải chính thức tuyên bố mới được hưởng các quy chế pháp lý của vùng biển dài 200 hải lý tính từ đường cơ sở này. Việt Nam đã tuyên bố vùng đặc quyền kinh tế của mình vào ngày 12/5/1977, và cũng đã cụ thể hoá trong Luật Biển Việt Nam năm 2012. Như vậy, có thể thấy Việt Nam đã hoàn thành các nghĩa vụ pháp lý để có thể xác lập quyền chủ quyền và quyền tài phán tại vùng đặc quyền kinh tế của mình.

Theo Công ước Luật Biển 1982, Việt Nam có quyền chủ quyền (sovereign rights) đối với các hoạt động thuộc về khai thác tài nguyên thiên nhiên (từ động vật sống đến khoáng sản) tại khu vực biển đặc quyền kinh tế. Các quyền này là độc quyền; tức là không một quốc gia nào khác có thể thực hiện các hoạt động kể trên trong vùng đặc quyền kinh tế của một quốc gia, ngoài chính quốc gia đó, hoặc được quốc gia này cho phép. Tuy nhiên, các tàu thuyền của các quốc gia khác được tự do đi lại trong vùng biển này.

Ngoài ra, Việt Nam còn có quyền tài phán (jurisdiction) đối với các hoạt động nghiên cứu khoa học biển trong vùng đặc quyền kinh tế của mình. Theo đó, việc tiến hành nghiên cứu khoa học biển trong vùng đặc quyền kinh tế phải được sự cho phép của Việt Nam.

Tiếp đến, Việt Nam còn có quyền thực thi các hoạt động hành pháp và tư pháp như khám xét, điều tra, bắt giữ và tiến hành các hoạt động tố tụng mà Việt Nam cảm thấy là cần thiết để đảm bảo các quy định và pháp luật của mình phải được tuân thủ. Đây là các quyền tài phán mà công ước cho phép các quốc gia ven biển thực hiện để bảo vệ quyền chủ quyền của mình trong vùng đặc quyền kinh tế.

Như vậy, có thể thấy Công ước Luật Biển 1982 có các điều khoản và quy định khá chặt chẽ để bảo vệ quyền lợi của các quốc gia ven biển trong vùng đặc quyền kinh tế của mình. Điều này cũng phù hợp với tinh thần Hội nghị Luật biển lần 3 của Liên Hợp Quốc soạn thảo ra UNCLOS, trong đó các quốc gia đang phát triển đấu tranh bảo vệ quyền lợi của mình trước các cường quốc biển. Khi đó, chính Trung Quốc cũng là quốc gia tích cực trong việc đấu tranh này. Và cũng chính Trung Quốc đã dựa trên các cơ sở pháp lý trên mà xua đuổi tàu Impeccable của Mỹ ra khỏi vùng nước của Đảo Hải Nam khi tàu này thực hiện khảo sát tại đây vào năm 2009.

Các hoạt động của tàu Trung Quốc tại vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam nếu nhằm mục đích thăm dò trữ lượng dầu khí ở đáy vùng đặc quyền kinh tế, cũng là vùng thềm lục địa của Việt Nam, đã xâm phạm vào quyền chủ quyền của Việt Nam. Bên cạnh đó, nếu hoạt động thăm dò địa chất nhằm phục vụ hoạt động nghiên cứu khoa học, thì dù dưới mục đích hoà bình hay không, cũng đã xâm hại đến quyền tài phán của Việt Nam trong vùng đặc quyền kinh tế của mình.

Ngoài ra, hiện giờ chắc chắn nó đã làm ảnh hưởng đến hoà bình trong khu vực biển này (bằng chứng là sự bám rượt của các tàu chấp pháp mỗi bên), vi phạm nghiệm trọng nghĩa vụ sử dụng biển một cách hoà bình theo Luật quốc tế. Nó còn ảnh hưởng đến hoạt động khác như tự do đi lại và hoạt động khai thác thác kinh tế của Việt Nam cùng các quốc gia khác (dưới sự cho phép của Việt Nam) tại đây.

Diễn biến tại Bãi Tư Chính và lô 06-01 qua góc nhìn Luật quốc tế
Sự hiện diện của tàu khảo sát của Trung Quốc trên lãnh thổ Biển Đông dẫn đến cuộc đối đầu

Giải pháp cho Việt Nam

Sự việc diễn ra vẫn chưa đến mức tranh chấp căng thẳng cực độ. Hiện giờ, bất chấp các hoạt động khiêu khích của Trung Quốc, Việt Nam vẫn đang hết sức bình tĩnh và kiên trì không sử dụng vũ lực. Đây là một hành động hết sức khôn ngoan và sáng suốt của Việt Nam. Bởi vì, để đối phó với Trung Quốc, quốc gia luôn biết cách tính toán để viện cớ ‘đóng vai nạn nhân’, thì các hành vi trái với pháp luật như sử dụng vũ lực sẽ là cái cớ để Trung Quốc lấn tới.

Việt Nam có thể lựa chọn biện pháp hoà bình để giải quyết. Từ đàm phán trực tiếp, trao đổi công hàm cho đến nêu vấn đề trong các hội nghị quốc tế, vận dụng cơ chế làm việc của các tổ chức quốc tế mà Việt Nam là thành viên, trong đó đặc biệt quan trọng là ASEAN, để kêu gọi sự ủng hộ của bạn bè quốc tế.

Ngoài ra, Việt Nam có thể cân nhắc sử dụng cơ chế hoà giải bắt buộc đối với các vấn đề liên quan đến nghiên cứu khoa học theo phụ lục V Công ước Luật Biển 1982. Hay việc sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc ở phụ lục VII của Công ước về các vấn đề pháp lý liên quan khác trong hai sự kiện trên.

Trước tình hình Trung Quốc vô trách nhiệm đối với nghĩa vụ quốc tế và sử dụng các tiểu xảo để trục lợi, Việt Nam cần phải chủ động trong việc giải quyết các tranh chấp tại đây.

(Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm riêng của tác giả Phạm Ngọc Minh Trang hiện là giảng viên Luật biển quốc tế tại Đại học Quốc gia TP.HCM và là cộng sự của Dự án Đại Sự Ký Biển Đông)

Nguồn: Ngọn Cờ

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây