Chủ trương về thu hồi lại tài sản công đã bán có thể được thực hiện theo quy định pháp luật mà vẫn đảm bảo tôn trọng các nguyên tắc về sở hữu và pháp quyền.
LTS:Tuần Việt Nam mở Diễn đàn “Vì Việt Nam hùng cường” với mong muốn thu nhận từ quý độc giả những ý kiến, bài viết về các giải pháp phát triển đất nước trong tất cả các lĩnh vực nhằm khơi thông tiềm năng phát triển, cổ vũ niềm tin của cộng đồng vào tương lai Việt Nam.
Chủ đề đầu tiên của Diễn đàn tập trung vào thể chế kinh tế. Mời quý vị cùng theo dõi.
Tôi chia sẻ với quan điểm trong hai bài viết “Phải làm chính quyền tin mình và mình cũng tin chính quyền” và “Quyền tài sản của chúng ta còn rất yếu” trên Diễn đàn Vì Việt Nam hùng cường về việc thu hồi lại công sản đã bán khi xử lý một số vụ sai phạm gần đây.
Các ý kiến băn khoăn là liệu việc thu hồi lại tài sản đã bán có căn cứ pháp luật thực hiện không?
Trong bài viết này, tôi đưa ra một vài ý kiến làm rõ khía cạnh pháp lý liên quan nhằm giải đáp các băn khoăn đó với hi vọng sẽ góp phần củng cố lòng tin của các nhà đầu tư tư nhân vì họ có vai trò rất quan trọng trong quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam.
Sân vận động Chi Lăng là nơi phải trả lại theo văn bản hành chính.
Đầu tiên cần khẳng định, việc mua bán các công sản được thực hiện bởi một bên là cơ quan nhà nước và bên kia là doanh nghiệp tư nhân, và về bản chất đây là giao dịch dân sự.
Vì thế, khi đặt ra vấn đề thu hồi lại tài sản đã bán thì cần căn cứ vào các quy định của pháp luật dân sự về giao dịch hợp đồng để giải quyết chứ không thể thực hiện bằng mệnh lệnh hành chính đơn phương.
Phải làm như vậy thì mới không xâm phạm đến các nguyên tắc của kinh tế thị trường, tôn trọng pháp luật dân sự về hợp đồng và tôn trọng sở hữu. Nhà nước không thể hành xử độc đoán vì như thế sẽ hủy hoại đi nền tảng pháp lý của kinh tế thị trường.
Trong Bộ luật dân sự hiện nay có quy định về trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên sẽ phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Điều 131 của Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu như sau: 1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập. 2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.
Như vậy, việc “hoàn trả cho nhau những gì đã nhận” ở điều luật trên chính là cơ sở pháp lý của việc thu hồi lại tài sản đã bán. Theo đó việc thu hồi lại tài sản do một cơ quan nhà nước đã bán là có thể và có cơ sở pháp lý để thực hiện.
Vấn đề còn lại chỉ là phải chỉ ra trong các giao dịch mua bán công sản đã thực hiện có bị vô hiệu hay không mà thôi.
Cũng theo quy định của Bộ luật dân sự thì giao dịch dân sự có thể bị vô hiệu trong nhiều trường hợp, ví dụ như: Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội; Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện; hay Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức.
Do việc mua bán công sản được thực hiện giữa một bên là cơ quan nhà nước và một bên là doanh nghiệp tư nhân, đều là những pháp nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, không bị những hạn chế có thể xảy ra ở những thể nhân, cho nên việc xác định nguyên nhân khiến các hợp đồng mua bán công sản vô hiệu sẽ được khoanh lại chỉ vào một số lý do nhất định như vi phạm điều cấm của pháp luật.
Trong thực tế, những sai phạm trong quá trình thực hiện thủ tục mua bán các khối công sản cũng thường được các cơ quan thanh tra kiểm tra chỉ ra là đã vi phạm quy định nào đấy của pháp luật. Để thu hồi lại tài sản đã bán việc cần làm tiếp theo là xét xem giao dịch dân sự đã vi phạm vào điều cấm nào của pháp luật để bị xác định là vô hiệu.
Có ý kiến cho rằng, việc mua bán công sản là hoàn toàn theo sự cho phép của pháp luật, đó là những chính sách cổ phần hóa, tư nhân hóa. Việc đó đã có chủ trương nên không bị cấm, việc vô hiệu chỉ xảy ra với các trường hợp vi phạm như cấm mua bán người, cấm mua bán động vật quý hiếm, cấm mua bán vật liệu nổ mà thôi.
Song đó chỉ là cách hiểu máy móc không đúng về vi phạm điều cấm của pháp luật vì theo quy định giải thích của Bộ luật dân sự cũng tại điều luật về giao dịch dân sự vô hiệu thì: “Điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định”.
Theo nội dung này thì nội hàm, phạm vi của những điều cấm của pháp luật là khá rộng, theo đó phạm vi không chỉ gồm các điều cấm rõ ràng mà còn bao gồm hàng loạt các quy định có tính chất nguyên tắc ấn định và hướng dẫn thực hiện các công việc mà nếu làm khác đi thì sẽ rơi vào trường hợp “quy định của luật không cho phép”.
Như thế, những hành vi như ra quyết định bán không đúng thẩm quyền, định giá quá thấp hay quá cao gây thất thoát công sản đều có thể bị coi là vi phạm điều cấm của pháp luật vì rõ ràng là quy định của luật không cho phép chủ thể được thực hiện những hành vi như vậy.
Để rõ hơn thì có thể phân tích qua một vụ việc cụ thể.
Trong vụ việc Công ty Tân Thuận bán khu đất Phước Kiểng cho doanh nghiệp tư nhân bị cho là Văn phòng thành ủy thành phố Hồ Chí Minh quyết định không đúng thẩm quyền, vì theo một văn bản nội bộ của Đảng bộ thành phố thì quyền quyết định chuyển nhượng khối tài sản của công ty Tân Thuận thuộc về Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh chứ không thuộc về Văn phòng thành ủy.
Có ý kiến cho rằng vi phạm điều cấm của pháp luật thì phải căn cứ theo luật, chứ những quy định nội bộ của cơ quan đảng thì đâu phải là pháp luật? Và doanh nghiệp tư nhân chỉ có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật và kiểm tra đối chiếu việc làm theo pháp luật chứ không có nghĩa vụ tuân theo cả những chính sách của đảng bộ thành phố.
Điều này cũng có lý nhưng nếu coi quy định về thẩm quyền là một thỏa thuận nội bộ của đảng bộ thành phố giống như một bản điều lệ của công ty thì Văn phòng thành ủy có nghĩa vụ phải tuân theo thỏa thuận này. Và khi cơ quan này tự ý quyết định không đúng thẩm quyền thì Thành ủy thành phố là bên bị thiệt hại liên quan hoàn toàn có quyền đề nghị tòa án tuyên giao dịch mua bán chuyển nhượng là vô hiệu phải hủy bỏ để khôi phục quyền lợi.
Việc này có thể được thực hiện theo đúng các quy định pháp luật hiện tại và theo đó chủ trương chung về thu hồi lại tài sản đã bán có thể thực hiện được mà vẫn đảm bảo tôn trọng các nguyên tắc về sở hữu và pháp quyền.
Đến nay, phần vốn của nhà nước mới chỉ bán được khoảng 8% trong số tổng số công sản ở doanh nghiệp nhà nước và chủ trương của chúng ta là tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hóa. Vì thế, xử lý những trường hợp như trên theo quy định của pháp luật thay vì các văn bản hành chính vừa có cơ sở pháp lý vừa tôn trọng nguyên tắc thị trường.
LS Ngô Ngọc Trai
Trân trọng kinh mời quý vị độc giả gửi bài cho Diễn đàn “Vì Việt Nam hùng cường” theo địa chỉ Email: [email protected]
Nguồn: Tuần Việt Nam