Hôm nay 17/02/2019 là tròn 40 năm kỷ niệm cuộc chiến tranh Biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc. Nhiều người vẫn tỏ ý kiến băn khoăn, nghi ngờ về đối sách của Việt Nam với Trung Quốc cũng như sự đánh giá của Nhà nước đối với cuộc chiến này. Bên cạnh đó, các trang mạng phản động, facebook của các đối tượng chống đối tung ra các thông tin xuyên tạc, kích động nhằm làm mất lòng tin của nhân dân.
Thông tin về cuộc chiến kể cả trên các báo chính thống cũng như trên diễn đàn mạng có rất nhiều. Ở đây, chỉ xin mạn phép trao đổi vài ý mà một số bạn còn băn khoăn.
Trung – Mỹ gặp nhau và cuộc ngã giá trên lưng Việt Nam
1. Trước hết cần khẳng định: Nhân dân Trung Quốc đã giúp đỡ ta rất lớn trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ; Nhà nước, nhân dân Việt Nam luôn khắc ghi những ân tình mà nhân dân Trung Quốc đã dành cho Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước. Tuy nhiên, giới lãnh đạo Trung Quốc không hoàn toàn vô tư, trong sáng, mà luôn theo đuổi âm mưu, ý đồ của mình. Món nợ ân tình giữa 2 nước đã bị chính giới cầm quyền Trung Quốc tự tay xoá sạch, với các hành động sau đây:
– Thứ nhất: Trung Quốc đã “thỏa thuận ngầm”với Pháp bằng xương máu của chính nhân dân Việt Nam trong việc ký kết hiện định Giơ- ne – vơ 1954. Đây cũng chính là lý do tại các cuộc đàm phán, ký kết hiệp định Pa – ri 1973, Việt Nam đã cương quyết không cho để Trung Quốc tham gia và cũng dứt khoát không nghe “gợi ý” của họ (tham khảo tại http://www.baogiaothong.vn/vai-tro-den-toi-cua-trung-quoc-tai-hoi-nghi-geneva-1954-d79158.html).
– Thứ hai: Lợi dụng chiến tranh Việt Nam để dẽ bề cưỡng chiếm và lấm liếm việc cưỡng chiế toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam từ tay Việt Nam Cộng Hoà năm 19/1/1974 (Tham khảo http://toquoc.vn/cau-ket-mytrung-va-cuoc-hai-chien-hoang-sa-99121379.htm).
Hình ảnh lính Chế độ Việt Nam Cộng hoà giơ tay đầu hàng dâng đảo Hoàng Sa cho Trung Quốc
– Thứ ba: Chỉ đạo Polpot đánh Việt Nam suốt các năm 1975 đến 1978; xâm lược Việt Nam tháng 2 – 3/1979, xung đột kéo dài đến tận 1989; chiếm đóng trái phép một số đảo, đá ngầm của Việt Nam ở quần đảo Trường Sa, điển hình là sự kiện đẫm máu Gacma ngày 14/3/1988.
Chính vì vậy, Việt Nam không còn nợ gì với Trung Quốc. Ngược lại, Trung Quốc nợ Việt Nam một lời xin lỗi công khai về những tội ác mà họ đã gây ra cho dân tộc Việt Nam từ thời xưa đến nay.
2. Nguyên nhân xảy ra chiến tranh Biên giới Việt – Trung:
– Một là, có thể khẳng định: Chủ nghĩa Đại Hán, tư tưởng bành trướng, bá quyền nước lớn đã ăn sâu trong tâm thức các thế hệ cầm quyền Trung Quốc từ xưa đến nay. Trung Quốc luôn coi Việt Nam là một “cái gai” trong mắt của họ, khi mấy ngàn năm lịch sử luôn kiên cường, bất khuất, nhiều lần hạ nhục “Gã láng giềng” hùng mạnh. Gần 1000 năm đô hộ mà mà không thể đồng hoá được người Việt. Bên cạnh đó huy động chiến tranh với Việt Nam cũng là cách mà TQ muốn thử phản ứng của Liên Xô sau hàng loạt những mâu thuẫn diễn ra ở khuc vực biên giới Xô Trung…
– Thứ hai, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, khi cuộc chiến sắp ngã ngũ, “gã láng giềng” lo sợ Việt Nam thống nhất sẽ vươn lên thành cường quốc, ảnh hưởng tới vị thế của Trung Quốc trong khu vực và trên thế giới. Thỏa thuận lịch sử giữa Tổng thống Mỹ Nixon và Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông năm 1972 (Mỹ nhượng Hoàng Sa của Việt Nam cho TQ; đổi lại TQ kiềm chế không để Hà Nội chiến thắng Việt Nam Cộng hòa, thống nhất đất nước) sụp đổ bằng Chiến thắng lịch sử 30/4/1975 là một vết cắt vào da thịt của họ. Trung Quốc cay cú vì Việt Nam luôn thực hiện tự chủ, tự quyết, không chịu lệ thuộc và “nghe theo” họ. Đầu năm 1079, Mỹ và Trung Quốc thoả thuận, câu kết với nhau để xiết chặt bao vây, cấm vận Việt Nam (tháng 01/1979, trong chuyến thăm Washington Đặng Tiểu Bình đã tự nhận, cam kết Trung Quốc là “Nato phương Đông”); đổi lại, Trung Quốc được tự do hành động tại Trường Sa, Mỹ sẽ không lên tiếng phản đối, can thiệp. Nên nhớ, tháng 01/1979 Đặng Tiểu Bình sang thăm Mỹ và ngày 17/2/1979 Trung Quốc nổ súng tấn công Việt Nam theo cam kết của người đứng đầu Bắc Kinh.
– Thứ ba, Trung quốc tấn công Việt Nam cũng đểnhằm giải vây cho Polpot – tay sai của Bắc Kinh ở Campuchia. Thực tế, ngay sau khi Việt Nam thống nhất, nhà cầm quyền Trung Quốc đã rất muốn đánh Việt Nam ngay, nhưng chưa có “nguyên cớ”, do đó đã chỉ đạo Polpot đánh thọc sườn ta ở biên giới Tây Nam, buộc Việt Nam phải tự vệ và đưa quân sang giúp nhân dân Campuchia giải phóng Chế độ Diệt chủng Polpot – Ieng Sary.
3. Lý do người Việt luôn có tư tưởng “Bài Trung Quốc”: Cần nói rõ, người Việt Nam rất ghét và luôn cảnh giác với chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc,chứ không ghét người dân Trung Quốc.
Tâm lý ghét Trung Quốc của người Việt là do lịch sử hàng ngàn năm để lại, khi luôn bị “lão hàngxóm” to xác, xấu tính đè nén, đô hộ cả ngàn năm. Sự “xấu chơi” của lão “Tàu khựa” bắt nguồn từ bản chất văn hoá của người Hán, mặc dù đấy là đặc trưng của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia, ta không kỳ thị và can thiệp. Nhưng khi văn hoá đó thấm vào máu của giới cầm quyền và đem đi nô dịch thiên hạ thì lại là việc khác, sẽ bị phản kháng, chống trả (chính bởi vậy mà qua nhiều thế hệ, người Việt cũng bị ngấm vào “gien” cái tâm lý phản kháng). Nên nhớ, người Việt là một dân tộc trượng nghĩa, “đem đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”, không nuôi giữ oán thù, các cự thù đều được chào đón làm bạn,Pháp – Nhật – Mỹ… nay đều là những đối tác ở tầm cao nhất.
Riêng với Trung Quốc, do đã quá hiểu dã tâm “anh láng giềng” này nên cái sự ghét, nghi ngờ đã trở thành “truyền kiếp” trong tâm thức người Việt. Nếu họ thực lòng muốn hoà hiếu, thì chính họ phải thay đổi hoàn toàn, không đổ thêm dầu vào lửa, làm trầm trọng hơn sự ghét bỏ bằng những hành động “tiểu nhân” đối với Việt Nam, và dù có như vậy, thì cũng phải có thời gian, qua nhiều thế hệ nữa thì người Việt mới có thể hết ghét Trung Quốc.
Việt Nam là láng giềng với Trung Quốc, đó là điều dù muốn cũng không thể thay đổi được; âm mưu, ý đồ của Trung Quốc cũng không bao giờ thay đổi, luôn hành sự theo kiểu “nói một đằng làm một nẻo”. Chính vì vậy, ta cần phải làm mọi cách để có thể xây dựng quan hệ hữu nghị, ổn định nhưng trên nguyên tắc giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; đồng thời nâng cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng đối phó với “anh láng giềng” nhiều dã tâm này. “Chúng ta không được đánh đổi chủ quyền để lấy hữu nghị viển vông, đó là điều mỗi người Việt Nam cần phải khắc ghi…” (Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược – Bộ Công an). Cuộc chiến 1979 không chỉ là bài học riêng cho Trung Quốc, mà Việt Nam cũng rút ra nhiều kinh nghiệm trong đối sách với “anh hàng xóm” này.
#Khánh Quỳnh# – Nguồn: Internet
Nguồn: Thường dân