LâmTrực@ – Theo các nhà nghiên cứu, các hoạt động mang tính “Xã hội dân sự” đã có từ lâu trong xã hội loài người. Tuy vậy, thuật ngữ “Xã hội dân sự” mới chính thức được sử dụng ở phương Tây cùng với quá trình công nghiệp hoá, thương mại hoá và sự xuất hiện, lớn mạnh của giai cấp tư sản, nhất là sau cách mạng dân chủ tư sản Pháp vào thế kỷ 15.
Trong những năm gần đây, đặc biệt là sau những biến cố chính trị xảy ra ở Đông Âu, Liên Xô (cũ) cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 của thế kỷ trước dẫn đến sự sụp đổ của hàng loạt nước XHCN, cụm từ “Xã hội dân sự” và “tổ chức Xã hội dân sự” ngày càng được biết đến và sử dụng phổ biến trên thế giới, gắn với sự hình thành của các phong trào ly khai, các tổ chức đối lập dưới hình thức các hội, nhóm, các công đoàn, ủy ban, phong trào (Công đoàn đoàn kết, Uỷ ban bảo vệ Công nhân ở Ba Lan, Nhóm hiến chương 77 ở Tiệp Khắc, Phong trào dân chủ ngay…). Các cuộc cách mạng sắc màu xảy ra ở một số nước Trung Á-SNG cũng được coi là những điển hình của các cuộc đấu tranh bất bạo động do các nhóm XHDS tiến hành dưới bàn tay hậu thuẫn của các nước phương Tây.
“Xã hội dân sự” là một thuật ngữ vay mượn, có nguồn gốc từ các nước phương Tây, được dịch ra từ các cụm từ trong tiếng Anh (Civil Society). Thuật ngữ “Xã hội dân sự” (XHDS) đề cập tới lĩnh vực hoạt động xã hội tự nguyện với vai trò tự chủ của người dân và tiềm năng to lớn của xã hội đối với quyền lực và khả năng hạn chế của Nhà nước. XHDS được sử dụng nhằm phân biệt khu vực tự nguyện với “xã hội chính trị” đặc trưng là các hoạt động mang tính quyền lực cưỡng chế của Nhà nước. Gần đây một số học giả tư sản còn sử dụng thủ đoạn tuyên truyền rằng XHDS là đối lập với “xã hội độc tài, toàn trị”, họ cho rằng các nước độc đảng là không có XHDS, không dân chủ, và tìm cách thâm nhập tư tưởng XHDS phương Tây vào nhằm thực hiện mưu đồ chuyển hóa dân chủ theo thể chế dân chủ tư sản.
1. Khái niệm Xã hội dân sự
Kể từ khi được biết đến trong ngôn ngữ chính trị học cuối Thế kỷ 15 đến nay, cụm từ XHDS vẫn luôn rất phức tạp, khó hiểu và chưa có định nghĩa thống nhất nào, mà tùy từng bối cảnh thời kỳ lịch sử, đặc trưng văn hóa và chế độ chính trị của mỗi quốc gia để đưa ra cách định nghĩa, quan niệm khác nhau.
– Theo quan niệm của C.Mác: XHDS là khái niệm hình thành gắn liền với quá trình xuất hiện và phát triển của chủ nghĩa tư bản, “Thị trường, các tầng lớp xã hội, luật dân sự, các tổ chức phúc lợi xã hội là những gì tạo nên XHDS”. Mác cho rằng “XHDS là một phương tiện khác để tăng thêm lợi ích của giai cấp thống trị của CNTB, mọi xung đột và bất bình đẳng trong xã hội xuất phát từ sự khác nhau trong lợi ích kinh tế và chính trị. Do vậy, dù cho cái gọi là XHDS nhằm giảm vai trò chính trị của nhà cầm quyền hay mở rộng thị trường tự do thì bản chất của xã hội vẫn là CNTB”.
Tuy vậy, nhìn rộng hơn, Mác cũng nhận thấy ở XHDS vấn đề cốt lõi chính là việc huy động sự tham gia của quần chúng, các hội, đoàn quần chúng (XHDS) đối với tiến trình lịch sử xã hội. Mác vạch rõ chính Nhà nước phải phục vụ XHDS. Mác đã từng khái quát vai trò của XHDS là “trung tâm thực sự, vũ đài thực sự của toàn bộ lịch sử”; ý nghĩa của nhận định này là ở chỗ, giai cấp nào, lực lượng xã hội nào, đảng chính trị nào muốn chiến thắng đều phải chiến thắng ở XHDS, tức là phải nắm được quần chúng, một lực lượng vật chất vô cùng to lớn.
– Theo “Báo cáo đánh giá ban đầu về XHDS ở Việt Nam” công bố ngày 9/6/2006, “Liên minh thế giới về sự tham gia của công dân” (CIVICUS) đưa ra khái niệm: “XHDS là diễn đàn giữa gia đình, Nhà nước và thị trường, nơi mà mọi người bắt tay nhau để thúc đẩy quyền lợi chung”. Có thể nói, đây là cách đưa ra khái niệm rất “khôn khéo” của CIVICUS và những người tham gia dự án này, nhằm che dấu đi những vấn đề có tính nhạy cảm của XHDS, nhất là yếu tố tác động đến Nhà nước của XHDS sau những biến cố phức tạp xảy ra làm sụp đổ hàng loạt nước XHCN ở Đông Âu, Liên Xô và các nước SNG vừa qua có liên quan đến vai trò của XHDS và các tổ chức XHDS.
Mặc dù đề cập đến XHDS ở những góc độ khác nhau, nhưng các quan điểm trên đều đề cập đến 5 yếu tố chung nhất sau đây:
Thứ nhất, XHDS là “môi trường” hay “mảng”, “khu vực” đời sống xã hội nằm ngoài phạm vi Gia đình, Nhà nước và Thị trường. Nói cách khác, XHDS không thuộc phạm vi cấu trúc quyền lực Nhà nước; không vì mục tiêu lợi nhuận và có sự liên kết của nhiều cá nhân ngoài gia đình, mang tính xã hội.
Thứ hai, nguyên tắc hoạt động trong XHDS là tự nguyện, tự quản, tự cấp, tự túc về kinh phí. Kinh phí của XHDS do các thành viên tự đóng góp, tự quản lý và tổ chức các hoạt động của mình…
Thứ ba, các hoạt động trong XHDS phải tuân theo một trật tự pháp lý hay các nguyên tắc chung. Các tổ chức XHDS phải có điều lệ, nội quy, quy định và được luật pháp thừa nhận.
Thứ tư, XHDS hướng tới mục tiêu chung xuất phát từ mối quan tâm và lợi ích chung. Một tổ chức XHDS hình thành trên cơ sở nhu cầu, lợi ích chung của các nhóm xã hội.
Thứ năm, trong số các mục tiêu của XHDS, có một mục đích quan trọng nhất là khả năng tác động tới Nhà nước, lên tiếng đòi hỏi, đề đạt nguyện vọng với Nhà nước, yêu cầu Nhà nước quan tâm đến lợi ích của mình, giám sát quá trình hoạch định chính sách. Cũng chính vì thế, XHDS thường bị lợi dụng như là thiết chế có sức mạnh chính trị để gây sức ép với chính quyền và tiến hành các hoạt động chống nhà nước.
2. Bản chất của Xã hội dân sự
Xã hội dân sự là mảng đời sống xã hội nằm ngoài phạm vi Nhà nước, gia đình và thị trường, nơi diễn ra các hoạt động chung của người dân được tổ chức một cách tự nguyện, tự quản, tự trang trải, theo một khuôn khổ pháp lý hoặc quy tắc chung nhất định, nhằm mục tiêu chung, trong đó có mục tiêu tác động gây ảnh hưởng với Nhà nước và thị trường để đáp ứng lợi ích, mối quan tâm chung của cộng đồng. Nghiên cứu về XHDS, có thể rút ra bản chất cốt lõi của nó là vấn đề dân chủ và được thể hiện cụ thể ở 3 khía cạnh đó là:
– Sự tham gia đóng góp của người dân vào quá trình hoạch định và thực thi chính sách của Nhà nước thông qua các cơ chế thực hành quyền dân chủ (dân chủ trực tiếp ở cơ sở, thông qua các đoàn thể quần chúng và dân chủ đại diện qua các cơ quan dân cử);
– Quyền tự do hội họp, lập hội và vai trò của các hội đoàn, tổ chức tự nguyện của quần chúng trong xã hội;
– Giới báo chí truyền thông có vai trò quan trọng giúp cho các tổ chức XHDS và người dân thể hiện tiếng nói, quan điểm, quyền tự do ngôn luận, quyền được thông tin, lên tiếng đề đạt nguyện vọng với Nhà nước, phản biện xã hội, tham gia chính sách, là thiết chế giúp thực hiện quyền dân chủ của nhân dân.
Thực tế cũng đã chỉ ra, những khía cạnh trên cũng là những vấn đề mà những người có tư tưởng chống đối chính quyền, nhà nước luôn nhằm vào để lợi dụng.
3. Đặc trưng của XHDS theo quan điểm phương Tây
Qua nghiên cứu, có thể thấy, XHDS theo tiêu chí phương Tây có những đặc điểm, đặc trưng sau:
Thứ nhất, là việc thừa nhận một nền tự do tuyệt đối về lập hội, cho phép tồn tại các hội đoàn độc lập hoàn toàn với Nhà nước và các chính đảng; đa nguyên, đa đảng, tự do báo chí, tự do thông tin, báo chí độc lập trở thành công cụ để các tổ chức XHDS và các lực lượng đối lập gây áp lực với chính quyền và hỗ trợ cho các hoạt động chống chính quyền.
Thứ hai, tính chất độc lập với Nhà nước của XHDS và các tổ chức XHDS là một đặc thù của nền dân chủ tư sản phương Tây.
Thứ ba, khả năng “gây ảnh hưởng”, tác động chính sách, kiểm soát Nhà nước.
Thứ tư, tính đa nguyên về tư tưởng, nhằm tạo tiền đề hình thành nền chính trị đa nguyên, đa đảng.
Thứ năm, có một số chức năng theo tiêu chí của nền dân chủ tư sản phương Tây, như chức năng khuyến khích tham gia chính trị, tăng tính hướng đích và kỹ năng chính trị của các công dân; chức năng tuyển lựa và đào tạo các lãnh tụ chính trị mới và chức năng giám sát bầu cử…
Có thể thấy rằng XHDS theo tiêu chí phương Tây luôn đề cao chủ nghĩa đa nguyên, khẳng định tính tự do hoàn toàn của các hội, đoàn của quần chúng, tồn tại độc lập với chính quyền; cho phép tồn tại báo chí độc lập và đặc biệt là các tổ chức XHDS có tiềm năng rất lớn trong việc tạo ra các nhân tố đối lập, các thủ lĩnh chính trị, nhằm tạo đột biến trong các kỳ bầu cử, tiến hành các cuộc cách mạng màu.
4. Vấn đề XHDS ở Việt Nam hiện nay
Việc nghiên cứu về XHDS ở Việt Nam trên thực tế đã được các chuyên gia nước ngoài tiến hành từ lâu, ngay sau khi xảy ra biến cố chính trị ở các nước XHCN Đông Âu và Liên Xô đầu những năm 1990. Tuy nhiên, trong khoảng hơn chục năm trở lại đây thì vấn đề XHDS ở Việt Nam mới lại được nhiều nhà nghiên cứu, học giả quan tâm làm rõ. Mặc dù vậy, thực tế cho đến nay XHDS vẫn là một vấn đề hết sức mới mẻ cả về mặt lý luận lẫn trong thực tiễn ở Việt Nam. Việc nghiên cứu, làm rõ bản chất của vấn đề XHDS ở Việt Nam để thống nhất nhận thức và có quan điểm hết sức khách quan đối với vấn đề này đang trở thành vấn đề rất hệ trọng liên quan mật thiết đến sự ổn định và phát triển của đất nước. Hiện tại, có rất nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí trái ngược nhau giữa các cơ quan, ban, ngành, các giới về vấn đề XHDS.
Xuất phát từ những vấn đề cốt lõi nhất thuộc về đặc trưng, thực tiễn của xã hội Việt Nam, về bản sắc văn hóa, truyền thống, phong tục, tập quán, chế độ ở Việt Nam và trên cơ sở thống nhất kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu, các chuyên gia về vấn đề này; đồng thời, đối chiếu với quan niệm phương Tây về vấn đề XHDS và những kinh nghiệm thực tế mà các nước đã và đang áp dụng, có thể coi XHDS đã tồn tại ở Việt Nam, trong môi trường dân chủ có những đặc trưng riêng biệt, khác hẳn so với XHDS ở các nước phương Tây.
Việc nhìn nhận ở Việt Nam có XHDS là việc làm có tính chất tạo động lực để khai thác nguồn lực quần chúng, phát huy dân chủ, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
5. Đặc trưng của XHDS ở Việt Nam
Vấn đề XHDS ở nước ta chính là việc huy động sự tham gia của người dân vào các hoạt động xã hội tự, nhân đạo, phi lợi nhuận, cung ứng dịch vụ công, phục vụ cho lợi ích chung của cộng đồng và của mỗi người dân… thông qua nhiều hình thức, trong đó chủ yếu là các hoạt động của người dân tham gia vào các phong trào, hội, đoàn của quần chúng.
XHDS ở Việt Nam với việc phát huy tích cực của quần chúng tham gia vào xây dựng và triển khai chính sách, pháp luật thông qua các phong trào, cơ chế thực hành quyền dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, giúp tăng cường dân chủ và nâng cao trách nhiệm của cán bộ công chức Nhà nước trong việc bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của nhân dân. Đây chính là biểu hiện của nền dân chủ, là mục tiêu tốt đẹp mà chế độ ta hướng tới.
Báo chí Việt Nam là diễn đàn sinh hoạt dân chủ của người dân, phục vụ sự nghiệp cách mạng của toàn dân tộc.
Các tổ chức XHDS ở VN là các đoàn thể, không đứng độc lập mà là một thành tố của hệ thống chính trị và chịu sự lãnh đạo của Đảng thông qua vai trò tập hợp đoàn kết của Mặt trận Tổ quốc, phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của toàn dân tộc.
Cho đến nay, vẫn chưa có sự thống nhất và sự liệt kê chính thức nào về các loại hình tổ chức XHDS ở Việt Nam. Bởi, ngoài các tổ chức xã hội và xã hội nghề nghiệp hoàn toàn tự túc về kinh phí, còn có khoảng trên 30 tổ chức đoàn thể chính trị, tổ chức chính trị xã hội ở nước ta được Nhà nước hỗ trợ về kinh phí và được cấp biên chế. Các tổ chức này là các đoàn thể quần chúng, có sự gắn kết chặt chẽ với Đảng Cộng sản Việt Nam, do đó các tổ chức này có sự khác biệt so với các tổ chức XHDS theo tiêu chí phương Tây là độc lập với các đảng nắm quyền.
Tuy nhiên, theo một số nghiên cứu gần đây (tiêu biểu là Báo cáo đánh giá ban đầu về XHDS ở Việt Nam) đã xếp các loại hình tổ chức XHDS ở Việt Nam bao gồm 4 nhóm sau: (1) MTTQVN và các tổ chức quần chúng trực thuộc (Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; Hội Liên hiệp phụ nữ; Hội cựu chiến binh; Hội Nông dân; Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam). (2) Các hội nghề nghiệp, bao gồm cả các tổ chức liên hiệp hội thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; (3) Các NGO Việt Nam không có hội viên (còn gọi là các tổ chức khoa học công nghệ phi lợi nhuận, các quỹ xã hội, quỹ từ thiện); (4) Các nhóm cộng đồng không có tư cách pháp nhân (như hội đồng hương, đồng ngũ, đồng niên…).
Như vậy, so với cách tiếp cận của thế giới thì có 2 điểm lưu ý thể hiện đặc thù của các tổ chức XHDS ở Việt Nam. Đó là: Thứ nhất, nhóm 1 gồm Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức quần chúng trực thuộc mặc dù có mối quan hệ rất chặt chẽ với Đảng và Chính phủ nhưng vẫn được coi là những tổ chức XHDS; Thứ hai, đảng chính trị, các tổ chức tín ngưỡng, tôn giáo và các TCPCP nước ngoài không được coi là thành phần thuộc XHDS Việt Nam.
Tuy nhiên, cũng cần cảnh giác trước âm mưu lợi dụng việc gọi các đoàn thể chính trị là tổ chức XHDS để tìm cách tác động, từng bước độc lập hóa các tổ chức đoàn thể quần chúng, tách các tổ chức này ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng theo tiêu chí XHDS phương Tây.
6. Tình hình của XHDS và các tổ chức XHDS ở Việt Nam
Kể từ sau Đổi mới, nhất là từ những năm đầu thập niên 1990 trở lại đây, các hiệp hội, NGO, phi lợi nhuận ở nước ta ngày một phát triển mạnh cả về số lượng và quy mô hoạt động. Theo Dự án điều tra về hội, NGO Việt Nam do Viện khoa học tổ chức nhà nước (Bộ Nội vụ) thực hiện, từ 1945 đến 1995 trên toàn quốc mới có 145 tổ chức; đến năm 2007 con số này đã lên tới trên 400 tổ chức có phạm vi toàn quốc và gần 7000 hội phạm vi tỉnh, thành phố. Ngoài ra, có khoảng 200 Quỹ xã hội từ thiện và gần 800 tổ chức khoa học công nghệ phi lợi nhuận. Điều đó chứng tỏ tiềm năng của các tổ chức XHDS ở Việt Nam là rất lớn.
Các tổ chức XHDS hoạt động trên hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội, chủ yếu ở các thành phố lớn như: Hà Nội (108 tổ chức), TP.HCM (148 tổ chức), Đà Nẵng (94 tổ chức), tập hợp chủ yếu trong một số Liên hiệp hội như: Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật, Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật…Các tổ chức XHDS đã thể hiện vai trò tích cực trong đời sống xã hội, huy động sức mạnh quần chúng tham gia giúp Nhà nước trong các nhiệm vụ liên quan đến quốc kế dân sinh.
Hầu hết các tổ chức hội, đoàn thể, NGO Việt Nam hoạt động theo đúng đường lối chính sách pháp luật của Nhà nước, góp phần mở rộng bầu không khí dân chủ, cởi mở trong xã hội, tăng cường đoàn kết toàn dân, động viên và khơi dậy nguồn lực to lớn của các tầng lớp nhân dân vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hơn nữa, các hiệp hội, NGO Việt Nam đã tích cực đóng góp ý kiến, tham gia vào quá trình xây dựng, triển khai chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước, và còn là kênh ngoại giao nhân dân, tích cực tham gia đấu tranh phản bác các luận điệu chống Việt Nam.
Bên cạnh mặt tích cực, ở không ít hiệp hội đã có những biểu hiện tiêu cực, nổi lên là xu hướng thoát ly sự quản lý của Nhà nước, lợi dụng danh nghĩa phản biện xã hội để phê phán sự điều hành của Chính phủ (IDS); phê phán bác bỏ dự Luật về Hội (VIDS, VUSTA); lưu truyền tài liệu nhạy cảm, sai phạm trong hoạt động báo chí xuất bản, quản lý tài chính; có cá nhân bộc lộ quan điểm đòi tự do ngôn luận, đòi đa nguyên, đa đảng, nhục mạ anh hùng dân tộc… Ngoài ra, đã có những dấu hiệu cho thấy sự áp đặt tư tưởng XHDS phương Tây, tác động vào các hội, đoàn nhằm từng bước hình thành các tổ chức nằm ngoài tầm kiểm soát của Nhà nước, tạo tiền đề cho đa nguyên, đa đảng, hình thành các tổ chức chính trị đối lập ở Việt Nam.
Còn nữa…
Nguồn: trelangblogspot.blogspot
Nguồn: Mõ làng