Gần đây, một số người đang tung hô cho phong trào dân chủ. Trên trang Ba Sàm đã có tóm lược những chuyển động bước dầu của cái gọi là “Phong trào đấu tranh dân chủ” và hí hửng rằng “đã gây được sức ép lên chính quyền”, buộc chính quyền phải lùi bước. Một số nhân vật lưu vong ở ngước ngoài đã hà hơi, tiếp sức về với những hô hào “phải tạo nên những phong trào rộng rãi trong dân chúng”, phải có chiến lược mở rộng bằng nhiều hình thức nhưng không hình thành tổ chức để không bị xử lí. Những cái đó đã lộ rõ giã tâm bạo loạn, lật đổ, núp dưới chiêu bài dân chủ. Đây đó đã có những tiếng nói sao không lấy những giá trị của Mĩ, châu Âu áp dụng luôn cho VN, mò mẫm xây dựng làm gì và họ copy cả những bản hiến pháp của phương Tây đưa lên mạng như là một mẫu mực cần áp dụng… Thực ra đấy là ngụy biện để đánh lừa dân lành, hoặc giả thiếu hiểu biết thực sự.
Cổ súy cho dân chủ là việc đáng làm, song thiết nghĩ trước khi làm cần phải hiểu cái gì là đúng, sai. Xem ra, những tiếng nói phản biện vừa qua đều cổ súy cho việc bê nguyên những giá trị tự do, dân chủ của phương Tây vào Việt Nam (qua những kiến nghị, đề xuất của họ đã đưa ra). Đấy là một lối nghĩ, cách làm ấu trĩ, thể hiện sự hồ đồ về chính trị.
Dân chủ là một khái niệm chính trị học có nguồn gốc từ thời kì Hy Lạp cổ đại. Nó ra đời nhằm đề chống lại chế độ độc tài của một nhân vật chính trị đầu sỏ, hoặc chế độ chính trị, với ý nghĩa cổ vũ cho một nền quyền lực, sự thống trị, nền cai trị của người bình dân. Từ đó đến nay nền dân chủ sơ khai ấy đã phát triển, hoàn thiện không ngừng, ngày càng ưu việt hơn. Thậm chí nó được coi là một bộ phận của hệ tư tưởng chính trị, trở thành khế ước xã hội thể hiện ý muốn của nhân dân chấm dứt sự lạm quyền.
Ưu điểm của nền dân chủ phương Tây là nó hạn chế quyền lực và sự can thiệp của nhà nước, nêu cao quyền tự do ngôn luận, đa đảng, đa tổ chức, sự công nhận quyền được phê phán đảng cầm quyền, sự công nhận các quyền cơ bản của con người. Đại diện cho nền dân chủ phương Tây là nền dân chủ Mỹ với đặc trưng: coi chủ nghĩa cá nhân và các quyền tự nhiên là tối thượng, đặt công dân vào thế thù nghịch với quyền lực và nhà nước (nhà nước chỉ được làm những gì mà luật pháp cho phép, công dân được làm những gì mà nhà nước không cấm). Vì vậy ở đây, dân chủ thực sự là một biện pháp để ngăn ngừa bất kì cá nhân hay nhóm nào thực thi quá nhiều quyền lực, chứ không đơn giản là biện pháp để người ta nắm quyền lực. Nhà triết học James Bryce đã khái quát những tín điều làm cơ sở cho xây dựng nền dân chủ phương Tây là:
-Quyền thiêng liêng của cá nhân.
-Nguồn gốc quyền lực chính trị là nhân dân.
-Mọi chính quyền đều bị giới hạn bởi luật pháp và nhân dân.
-Chính quyền địa phương được ưa thích hơn chính quyền trung ương.
-Đa số khôn ngoan hơn thiểu số.
-Sự cai trị ít là sự cai trị tốt.
Tuy nhiên, các nền dân chủ của phương Tây được xây dựng trên một số tín điều, huyền thoại và giá trị (trên nền tảng văn hóa tôn giáo) của nó. Do vậy, nó cũng có những khiếm khuyết, những thách thức, mà nổi lên là các vấn đề như: sự tham gia tuyển cử của nhân dân, quan hệ giữa người đại diện và người được đại diện, sự can thiệp thái quá của nhà nước, sự tranh giành quyền lực giữa các lực lượng chính trị dẫn đến bạo lực, bạo động. Chẳng hạn, việc đề ra tiêu chuẩn để tham gia ứng cử là phải có một lượng tài sản có giá trị nhất định. Sự ủy nhiệm đại diện của nhân dân trên thực tế đã bị các đảng phái thâu tóm do thắng cử trong bầu cử. Nền dân chủ được thiết lập trên thế cân bằng giữa tự do cá nhân và hoạt động của chính phủ nên nó rất dễ bị phá vỡ. Điều này là điều kiện thuận lợi cho các nhóm không ngần ngại dùng bạo lực là công cụ duy nhất thay đổi xã hội. Đôi khi bạo động chính trị và bạo động tội ác kết hợp với nhau làm rối loạn các hoạt động thể chế mà người ta thường ám chỉ là MAFIA, hay những hỗn loạn đi kèm trong các cuộc “Cách mạng đường phố” ngày nay.
Vì vậy, nền dân chủ đó không thể là nền dân chủ mang tính phổ biến để áp dụng cho toan nhân loại được. Quá trình phát triển nền dân chủ được chứng minh rằng, nó phải được xây dựng trên nền tảng văn hóa, kinh tế, xã hội, tín ngưỡng của từng khu vực, từng quốc gia.
Hãy xem xét lại các nền dân chủ châu Á.
Đối với các xã hội châu Á, cái gọi là dân chủ chính là làn sóng dân chủ hóa xuất hiện vào nửa sau thế kỷ XX cùng với trào lưu phi thực dân hóa. Trước hết, nó là công cụ tư tưởng để những người theo chủ nghĩa dân tộc sử dụng nhằm chống lại sự cai trị của thực dân. Thế nhưng, bất cập là ở chỗ, các nước châu Á chưa hề trải qua xã hội tự do như ở Châu Âu hay ở Mỹ nên trong cách hiểu dân chủ có quá nhiều khác biệt.
Văn hóa châu Á, với những giá trị cổ truyền của nó khác biệt căn bản với các giá trị phương Tây. Nó có quá nhiều yếu tố ngăn cản, trì hoãn yếu tố dân chủ. Chẳng hạn, văn hóa Khổng giáo nhấn mạnh rằng nhóm, cộng đồng có ưu thế hơn cá nhân, uy quyền có sức mạnh hơn tự do, trách nhiệm ưu thế hơn quyền con người (quân tử thần tử). Ở mức độ mà các quyền cá nhân được thừa nhận thì chúng được xem là do nhà nước ban cho (khác hẳn với coi tự do là quyền tự nhiên của phương Tây). Vì vậy, sự hòa hợp và hợp tác được ưa chuộng hơn sự bất đồng và cạnh tranh; sự duy trì và tôn trọng các tôn ti trật tự được coi là những giá trị căn bản. Mâu thuẫn giữa các tư tưởng, các nhóm đảng phái có khuynh hướng bị coi là nguy hiểm.
Chính từ những đặc trưng nói trên, giới chính tri phương Tây cho rằng:
-Chế độ chính trị châu Á phổ biến là những chế độ đảng thống trị, dù là một đảng hay một liên minh chinh trị thì củng chỉ là để cố duy trì quyền lực mà thôi.
– Ở nhiều nước, nhất là Đông Á, sân chơi chỉ thường được làm sao cho có lợi cho chính đảng cầm quyền mà thôi. Còn vấn đề cạnh tranh công bằng và công khai giành phiếu bầu giữa các đảng chính trị là rất hạn chế.
– Các chế độ đảng cầm quyền, có vẻ như cạnh tranh giành quyền lực, nhưng không phải luân phiên nắm quyền lực. Đó là chế độ dân chủ không có chuyển giao chính quyền. Nó phỏng theo mô hình dân chủ phương Tây nhưng phục vụ cho các giá trị châu Á.
– Ở phương Tây và nhiều quốc gia trên thế giới, sự phát triển kinh tế là lực lượng trung tâm sản sinh ra những điều kiện cho sự xuất hiện các chế độ dân chủ. Ngược lại, ở châu Á, làm chậm lại sự phát triển kinh tế mới có thể tạo nên sức mạnh sản sinh ra những quá độ dân chủ.
Từ những khái quát nói trên, có thể thấy một số đặc điểm chung cho nền dân chủ châu Á:
-Ý thức cộng đồng ở các nước châu Á được coi là tối thượng, lợi ích cộng đồng bao giờ cũng ở trên lợi ích cá nhân. Trong đó, người ta nhấn mạnh trách nhiệm cá nhân hơn là quyền của cá nhân.
– Các nền dân chủ châu Á đều thừa nhận rộng rãi và rất tôn trọng đối với quyền uy và tôn trọng trật tự. Sự đối nghịch với nhà nước và những người cầm quyền được coi là không bình thường. Ngược lại cần phải duy trì mối quan hệ tôn trọng, cân bằng và hài hòa với quyền uy nhà nước.
-Đảng thống trị có thể cầm quyền lâu dài, và bao giờ cũng là đảng trung tâm. Những đảng này thường đã lãnh đạo các phong trào giải phóng dân tộc và có lợi thế là người đầu tiên huy động và xây dựng các tổ chức quần chúng.
– Hầu hết các nề dân chủ châu Á đều có một chế độ tập trung quan liêu và một nhà nước mạnh. Nhà nước có vai trò chủ yếu cho sự phát triển đất nước. Vì vậy nhà nước thường can thiệp và thậm chí là đầu tàu cho phát triển kinh tế.
Từ những chứng lí trên tôi cam đoan rằng: Không thể, hoặc chưa thể bê nguyên những giá trị dân chủ phương Tây vào Việt Nam được. Việc làm dại dột đó chỉ cổ súy cho những bất mãn nổi loạn, bất chấp luật pháp. Và vì vậy chỉ kéo lùi, cản trở sự phát triển xã hội. Những cổ vũ cho việc kí tên tập thể chỉ là trò dân chủ bầy đàn mà thôi.
Nguồn: Mõ làng